PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ Năm học 2019-2020 là năm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của BCH TW Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Phát triển phẩm chất, năng lực của từng học sinh là một trong những nhiệm vụ mà Nghị quyết đề ra. Nội dung đổi mới được thực hiện từ Bộ GD&ĐT cho tới mỗi cơ sở giáo dục. Nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của từng học sinh trên tinh thần của Nghị quyết, Bộ GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở giáo dục khuyết khích giáo viên dạy học theo hướng phát huy tích cực và phát triển năng lực, phẩm chất của từng học sinh. Bên cạnh đó, Ban lãnh đạo trường Tiểu học Nghi Hương luôn đề cao phương châm: dạy chữ kết hợp dạy người; phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự tin, mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm của mỗi giáo viên, mỗi học sinh trong nhà trường; tăng cường đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo bước chuyển mới về chất lượng giáo dục, với mục đích tạo niềm cảm hứng cho học sinh, phát triển tối đa năng lực, phẩm chất của từng học sinh trong lớp. Đứng trước những yêu cầu đó, nhiệm vụ đặt ra cho tất cả người giáo viên trong nhà trường nói chung và bản thân tôi nói riêng: bên cạnh truyền đạt kiến thức thì việc giúp các em phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo trong học tập, tạo môi trường học tập tích cực, thân thiện cũng vô cùng quan trọng, giúp từng học sinh trong lớp phát triển năng lực, phẩm chất của mình một cách bền vững. Nhiệm vụ này góp phần không nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục hiện nay. Vì thế trong dạy học tôi luôn chú ý nhiều đến sự phát triển năng lực, phẩm chất của từng học sinh trong lớp. Đó cũng là lí do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Nâng cao chất lượng giáo dục thông qua việc tăng cường phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 3A1” làm vến đề nghiên cứu. PHẦN B: NỘI DUNG I. Thực trạng vấn đề: Đất nước ta đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập với các nước trên thế giới. Nền khoa học thế giới lại đang chuyển động và phát triển đến độ chóng mặt và có sự cạnh tranh quyết liệt. Nó đang đòi hỏi cần có gấp những con người lao động đầy bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, tự tin, quyết đoán, thích ứng với mọi hoàn cảnh của xã hội đang trở mình. Bên cạnh việc tiếp nhận các thành tựu khoa học - kĩ thuật hiện đại từ các nước thì các nguồn văn hóa ngoại lai cũng ồ ạt xâm nhập vào từng góc phố, làng quê. Khoa học kĩ thuật phát triển, cả thế giới đang chạy theo trào lưu sử dụng công nghệ thông tin. Nhiều thông tin được chuyển tải trên các phương tiện nghe nhìn, các trang báo điện tử, các trang mạng xã hội và được nhiều người tham gia như: Facebook, Zalo,... Không ít người bị mê hoặc và sử dụng công nghệ thông 1 tin không đúng mục đích. Người học đang dần xa rời truyền thống, quên lãng lịch sử hào hùng của dân tộc từ ngàn năm. Đó cũng là những hồi chuông cảnh báo sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Đầu năm học 2019- 2020, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3A1- một lớp đại trà, tôi nhận thấy các em đã bước đầu biết tự học, tự quản và tự thực hiện các hoạt động học tập theo tài liệu, đã có những biểu hiện tích cực về phẩm chất cần thiết của người học sinh song những năng lực và phẩm chất đó chỉ thể hiện ở một số em và mức độ thể hiện chưa rõ, chưa nổi bật. Nhiều em có năng lực nhưng chưa mạnh dạn, thiếu tự tin trước tập thể hoặc khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề của bản thân còn hạn chế, còn phụ thuộc vào sự nhắc nhở, hướng dẫn của cô giáo, bố mẹ...Trao đổi với đồng nghiệp, tôi biết đây là vấn đề chung ở nhiều lớp, nhiều trường chứ không riêng gì ở lớp tôi. Để khắc phục vấn đề này không phải dễ vì các em đã thành thói quen từ lâu rồi. Đã là thói quen thì việc khắc phục không thể một sớm, một chiều mà nó phải trải qua một quá trình lâu dài, bền bỉ, kiên trì của tôi, của gia đình các em, của xã hội và của cả chính các em học sinh. Những thực trạng trên là những cơ sở để tôi đề ra những biện pháp thực hiện trong năm học này. II. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: Trong những năm gần đây, khi thực hiện đánh giá nhận xét học sinh theo Thông tư 22, với vai trò là Phó Hiệu trưởng quản lý chuyên môn. Bản thân tôi đã tim tòi, nghiên cứu một số kinh nghiệm trong việc thực hiện có hiệu quả về nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục học sinh. Từ đó tôi đã đi sâu tập trung nghiên cứu tìm những gải pháp để “Nâng cao chất lượng giáo dục thông qua việc tăng cường phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 3A1” mà tôi phụ trách. III. CÁC GIẢI PHÁP THAY THẾ: Thứ nhất: Thành lập Ban cán sự lớp, xây dựng nội quy lớp học, trang trí môi trường lớp học và phát huy vai trò của Ban cán sự lớp, tác dụng của các góc đã trang trí . Ban cán sự lớp là tổ chức của học sinh, vì học sinh, do học sinh bầu ở từng lớp, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Ban cán sự lớp được thành lập một cách dân chủ và tự nguyện, do học sinh tự đứng ra tổ chức, điều hành mọi hoạt động học tập của lớp học. Hoạt động của Ban cán sự lớp góp phần giúp học sinh hình thành tính tự chủ, tinh thần đoàn kết, hợp tác lẫn nhau; giúp học sinh hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình; rèn luyện các kĩ năng điều hành, lãnh đạo, kĩ năng đánh giá, kĩ năng tổ chức, kĩ năng ra quyết định,...trong các hoạt động ở lớp. Hiểu rõ được mục đích của việc thành lập Ban cán sự lớp, ngày từ đầu năm học, tôi đã dành trọn một buổi học để hướng dẫn và tổ chức cho các em thực hiện. Ban cán sự lớp gồm 1 lớp trưởng, 2 lớp phó và các tổ trưởng phụ trách các tổ trong lớp. Số lượng Ban cán sự lớp do học sinh trong lớp quyết định. Khi đã thành lập được Ban cán sự lớp, tôi tổ chức tập huấn cho các em những kĩ năng cơ bản, cho các em biết được vai trò, nhiệm vụ cụ thể của mình. Từ đó, tôi mạnh dạn giao cho Ban cán sự lớp thực hiện các nhiệm vụ quản lí lớp, duy trì tổ chức sinh hoạt lớp, 2 giờ chào cờ đầu tuần; khuyến khích các em tích cực tham gia trang trí lớp, tự tổ chức các hoạt động vui chơi, đăng kí tham gia các câu lạc bộ. Tôi không làm thay, làm hộ học sinh mà chỉ đóng vai trò là người theo dõi, kiểm tra và tư vấn giúp đỡ. Cuối mỗi tuần tôi đều tổ chức sinh hoạt lớp để các em tự đánh giá những việc làm được và những việc chưa làm được. Qua đó các em có cơ hội bộc lộ khả năng điều hành, khả năng hợp tác, xây dựng ý kiến của bản thân, rèn luyện các phẩm chất, năng lực cần thiết. Để xây dựng một lớp học thân thiện, học sinh tự tin mạnh dạn, hòa đồng, ta cũng phải xây dựng một nề nếp lớp đảm bảo đúng kỉ cương, tình thương, trách nhiệm. Đồng thời với việc thành lập và phát huy vai trò của Ban cán sự lớp, ngay những ngày đầu nhận lớp, tôi ổn định nề nếp lớp bằng cách tổ chức cho các em thảo luận để xây dựng nội quy lớp học theo Nên - Không nên. Phòng trào thi đua về các mặt: học tập, nề nếp - kỉ luật, vệ sinh, văn nghệ - thể dục thể thao, an toàn giao thông ...cũng được phát động. Như vậy, những hoạt động trên đã góp phần tạo niềm đam mê trong những ngày đầu đến lớp của học sinh, các em đã được phát triển những phẩm chất và năng lực cần thiết. Thứ hai: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học tích cực Người thầy giáo có thể say mê giảng bài suốt 40 phút của một tiết học mà không có cảm giác mệt mỏi. Nhưng với học sinh việc tập trung nghe thầy giảng bài suốt 40 phút trong một buổi học thường có từ 3 - 4 tiết học lại không phải là điều dễ dàng. Hiện tượng uể oải, ngáp vặt, ngủ gục, nói chuyện riêng trong lớp sẽ diễn ra. Vậy để một tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sinh động, thu hút sự chú ý của học sinh và đem lại hiệu quả cao, tôi luôn lưu ý những điểm sau đây: - Bao quát tốt lớp học để nhận biết đối tượng học sinh thiếu tập trung hoặc có tâm trạng không tích cực do tác động của hoàn cảnh khách quan (có chuyện không vui trong gia đình, sức khỏe kém, cơ thể mệt mỏi), từ đó lường được thái độ nóng giận ảnh hưởng chung tới sinh khí của cả tập thể; Không rập khuôn theo một trình tự mà học sinh đã quá quen thuộc; Linh hoạt thay đổi khẩu khí, thay đổi cách thức hỏi, giảng giải đối với học sinh; Tăng tính trực quan sinh động bằng trình chiếu h́ình ảnh, minh họa đúng lúc, đúng chỗ; Vào đầu mỗi tiết học, tôi chuẩn bị một câu chuyện nhỏ để kể cho các em nghe nhằm tạo động lực học tập ở các tiết tiếp theo. Cũng có thể cho các em khởi động bằng các trò chơi hoặc một bài hát...Nếu bài hôm đó khó tiếp thu hay nét mặt các em thể hiện sự mệt mỏi. Lúc đó, tôi tổ chức một trò chơi tại chỗ để các em lấy lại hứng thú. Nếu có em làm bài chưa đạt nên buồn, chán nản thì tôi động viên bằng những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ có trong chương trình để thổi vào tâm hồn em một luồng sinh khí nhằm làm xua tan chán nản, rụt rè và đánh thức niềm đam mê trong học tập của em... Chẳng hạn: “Thua keo này bày keo khác”, “Thất bại là mẹ của thành công”, “Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo”,...Như vậy vừa động viên, vừa giúp các em biết cách vận dụng bằng những kiến thức đã học vào trong thực tế để giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn, tạo sự hưng phấn cho các em. Kinh nghiệm cho thấy, để giúp các em thích học thì tôi luôn dùng lời động viên hết mình là chính. Trong đó, tôi luôn đề 3 cao tính tự học, tự thi đua giữa các em với nhau nên các em rất thích. Đặc biệt khi luyện đọc đúng hoặc đọc hay trong môn Tiếng Việt, tôi hay sử dụng câu “con thi đọc với bạn A, B, C, xem ai đọc đúng và hay hơn nhé?” thì nét mặt các em vui và sẵn sàng chấp nhận một cách rất tự nhiên và tích cực. Thậm chí có nhiều em nhanh nhảu tự giác bắt cặp, chọn người để thi đọc. Lúc đó, tôi thấy tiết học nhẹ nhàng nhưng học sinh hoạt động tích cực, bằng chính những năng lực của mình và hiệu quả tiết dạy cũng đạt cao hơn. Và đặc biệt nên cho các em phải kiểm tra qua lại với nhau, nhằm tạo tính thân thiện, công bằng, không có em nào tự cảm thấy là mình quá tệ. Mà ngược lại, em nào cũng có sự hãnh diện riêng vì được giúp bạn. Làm thế, tôi thấy các em rất hứng thú học tập, vì em nào cũng muốn thể hiện năng lực của mình. - Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học tích cực. Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm và dạy học cá thể là những hình thức của dạy học tích cực cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, ..... Đây là các phương pháp, kĩ thuật dạy học tương đối dễ áp dụng ở tiểu học, không đòi hỏi phải đầu tư nhiều phương tiện, đồ dùng học tập, song lại là cơ hội tốt để các em rèn kĩ năng hợp tác, kĩ năng chia sẻ, lắng nghe, óc tư duy, kĩ năng ra quyết định. Thứ ba: Hướng dẫn học sinh học theo hướng tự phát hiện kiến thức: Trong quá trình dạy học trên lớp, giáo viên có thể thực hiện theo trình tự: - Giúp học sinh nắm được mục tiêu nhiệm vụ học tập; Tự mình giải quyết nhiệm vụ học tập; - Khi gặp khó khăn mới trao đổi với bạn (khi đó nhóm học tập hình thành một cách tự nhiên theo nhu cầu của chính các em). - Các bạn trong nhóm trao đổi bài kiểm tra cho nhau, nói cho nhau kết quả, cách làm của mình. - Báo cáo kết quả học tập trước lớp cho các bạn và cô giáo; thực hiện nhiệm vụ học tập mới. Trong khi học sinh học, tôi chọn vị trí thích hợp quan sát thái độ, cử chỉ nét mặt để phát hiện em nào gặp khó khăn, kịp thời có biện pháp giúp đỡ. Nếu nhiệm 4 vụ học tập là vấn đề khó với đa số học sinh, tôi hướng dẫn chung với cả lớp. Để học sinh thuận lợi trong trao đổi, tương tác, việc kê bàn ghế cần bố trí phù hợp. Ngoài ra để hướng dẫn các em học tập theo hướng tự phát hiện kiến thức tôi tạo cho học sinh có sự hứng thú trong học tập. Theo tôi, để học sinh có hứng thú trong học tập không chỉ có làm tốt ở phần nội dung của bài mà còn phải làm tốt các khâu như giới thiệu bài, củng cố bài. - Ở phần giới thiệu bài để tạo hứng thú cho các em ta cần có nhiều cách giới thiệu bài khác nhau theo từng ngày, từng tiết để tránh sự nhàm chán, có thể vận dụng những cách sau: Lấy mục đích, yêu cầu để giới thiệu; Tạo một cuộc hội thoại nhỏ giữa giáo viên và học sinh về những vấn đề có liên quan đến nội dung bài học, tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở và tích cực; Nêu một vấn đề có liên quan đến nội dung bài để học sinh trải nghiệm, để huy động vốn hiểu biết của các em vào việc tiếp nhận kiến thức mới; Kể một câu chuyện ngắn có liên quan đến bài mới; Tổ chức một trò chơi nhỏ có liên quan đến nội dung bài học để khởi động vào bài mới; Đưa ra “câu đố” đòi hỏi học sinh làm xong bài sẽ trả lời; - Ở phần tìm hiểu nội dung bài: Để huy động tối đa sự tham gia tích cực và phát huy tố đa năng lực của tất cả học sinh trong quá trình học tập, tôi thường tách nhỏ câu hỏi. Đây là cách dẫn dắt học sinh nhận thức từng bước, từng chi tiết đến tổng thể. Cách làm này giúp ta thực hiện dạy học phân hóa đối tượng học sinh trong lớp và huy động nhiều học sinh tham gia tìm hiểu bài. Qua đó cũng giúp học sinh tự nhận thức, chiếm lĩnh kiến thức theo từng bậc, từ dễ đến khó, từ cơ bản đến phức tạp và luôn có bổ sung thêm câu hỏi phụ. - Ở phần củng cố bài: Thực tế cho thấy, nếu thực hiện tốt bước củng cố bài, ta sẽ từng bước rèn luyện cho học sinh phương pháp tích lũy vốn kiến thức. Củng cố kiến thức phải đảm bảo hai yếu tố sau: tái hiện và sáng tạo (vừa củng cố kiến thức đã học vừa có sự liên quan đến kiến thức ngày mai để khêu gợi tính tò mò, đánh động sự khám phá hứng thú học tập ở học sinh có năng khiếu). Trong một tiết học, học sinh có thể thực hiện nhiều hoạt động, có thể làm nhiều bài tập, các em khó lòng ghi hết những gì đã học. Do vậy, ta cần giúp các em tự rút ra và tự ghi nhớ một số nội dung cốt lỏi của bài học cũng như ý nghĩa thực tiễn. Tôi thực hiện nhiều cách làm để tránh sự nhàm chán. Cụ thể: Chốt theo nội dung, yêu cầu của bài học, khắc sâu kiến thức, kĩ năng mà bài học yêu cầu; Đưa ra một số câu hỏi về ý nghĩa của bài học, học sinh suy nghĩ và liên hệ thực tế; Tổ chức một số trò chơi học tập để bước đầu học sinh biết vận dụng, thực hành kiến thức kĩ năng vừa học... Với cách dạy học như trên tất cả các em học sinh có cơ hội ḥòa nhập và được thể hiện năng lực của mình, kể cả những học sinh chậm tiến. Thứ tư: Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý để hỗ trợ dạy học: Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy 5 học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên, học sinh luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Trong mỗi tuần học, bản thân tôi luôn rà soát chương trình các môn dạy, kiểm tra đồ dùng cần thiết trong các tiết học xem đồ dùng nào đã có, đồ dùng nào cần bổ sung, đồ dùng nào giáo viên tự làm, đồ dùng nào có thể gởi ý để học sịnh làm. Khi hoạt động này đã thành thói quen thì học sinh tự chủ động xem trước bài, chuẩn bị bài bao gồm cả việc chuẩn bị đồ dùng học tập. Ví dụ khi học bài “Tính chất của nước”, các nhóm trưởng sẽ chủ động phân công nhau đưa các đồ dùng như muối, nước, đường, khăn bông, tấm nhựa...Chính việc làm này tạo tâm thế chủ động, tự tin cho học sinh khi đến lớp. Bên cạnh những đồ dùng dạy học thủ công, từ nhiều năm nay, tôi còn vận dụng mô hình giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu, ti vi Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình, ) đến hiện đại (cassette,ti vi, ). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn. Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy – trò, chứ không phải giao tiếp máy – người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại. Tóm lại, trong quá trình dạy học tôi đã khai thác triệt để các đồ dùng, thiết bị dạy học đã có và tự làm, tăng cường các bài giảng trình chiếu để tạo hứng thú cho học sinh, giúp các em ghi nhớ bài tốt hơn. Thứ năm: Rèn kĩ năng sống thông qua các tiết học, chú trọng đề cao kịp thời thành công của học sinh và khen ngợi đúng lúc Phương châm của giáo dục là dạy chữ kết hợp dạy người. Rèn luyện khả năng ứng xử hợp lí với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và các kĩ năng làm việc trong nhóm. Đối với các bài dạy, tôi luôn giáo dục theo chủ đề, chủ điểm hoặc theo nhân vật có tính cách tích cực, loại bỏ những tính cách không tốt thông qua nhân vật có trong bài học. Giáo dục theo kiểu tích hợp nhưng phải tích cực bằng các câu hỏi Ở lớp em đã làm gì để giúp đỡ bạn bè? Hoặc Ở lớp em đã làm gì để giữ gìn lớp sạch sẽ?...Từ đó tôi biết đích thực các em trả lời thật hay không. Nếu học sinh có làm thì tôi tuyên dương trước lớp. Sau khi tuyên dương, các em rất vui và hãnh diện về việc làm có ích của mình. Khi đó niềm vui và hứng thú trong việc 6 học của các em được nhân lên bội lần. Còn đối với các tiết học ngoại khóa, ví như tiết học về An toàn giao thông, cho học sinh xem một số hình ảnh về tai nạn giao thông và yêu cầu học sinh nói về hậu quả của nó. Hướng dẫn học sinh biết cách tham gia giao thông, ra sức thực hiện tốt an toàn giao thông. Hỏi trong lớp có em nào đã thực hiện an toàn giao thông. Học sinh kể ra, từ đó giáo dục các em: khi tham gia giao thông phải có văn hóa, đi bên phải, chạy xe hàng một, qua đường phải biết xem trước, ngó sau, biết giúp đỡ cụ già, em nhỏ qua đường ... Nghĩa là người thật gắn liền với việc thật. Với các tình huống trên, tôi muốn đem đến cho các em biết sống đẹp, có văn hóa. Từ đó, học sinh học tập được việc làm có ý nghĩa từ người bạn của mình. Khi học sinh có cảm hứng trong học tập thì học sinh sẽ ra sức quyết tâm chứng tỏ với tôi là mình không thua kém bạn, mà mình chưa nghĩ đến mà thôi. Nhân rộng thêm ở lớp, các em sẽ sống “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, biết “Sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội, đất nước”. Thứ sáu: Tổ chức các hoạt động trải nghiệm: Việc phát triển năng lực, phẩm chất và các kĩ năng sống cho học sinh không chỉ được phát triển ở những tiết dạy trên lớp mà còn được phát huy mạnh qua các hoạt động trải nghiệm, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể. Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn và tổ chức của giáo viên, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau. Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là người thiết kế và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh không những biết cách tích cực hoá bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân mà còn biết cách tổ chức hoạt động, tổ chức cuộc sống và biết làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm. Hoạt động trải nghiệm có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống và hình thành nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Giáo viên được chủ động trong việc bố trí thời gian, nội dung và h́ình thức hoạt động theo điều kiện của lớp, của trường. Khi tổ chức hoạt động trải nghiệm, tôi lựa chọn những nội dung phù hợp để học sinh cả lớp được tham gia; khuyến khích, động viên, tạo cơ hội để các em được bàn bạc từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện và viết thu hoạch cho bản thân sau mỗi hoạt động. Đặc biệt tôi tư vấn các em phân công công việc phù hợp cới sở trường, năng khiếu của mỗi bạn để các em thuận lợi trong hoạt động và phát huy được năng lực sở trường. Từ đó hình thành được ở các em năng lực phán đoán, óc tổ chức, năng lực tổng kết đánh giá cũng như các phẩm chất tự tin, tự chịu trách nhiệm, tinh thần hợp tác chia sẻ. 7 Ví dụ : Trước kì nghỉ lễ Tết Nguyên Đán, tôi tổ chức cho học sinh tổng dọn vệ sinh lớp học, thực hiện trồng cây và chăm sóc công trình măng non. Để thực hiện hoạt động này, tôi đã tổ chức hội ý thảo luận để các em xác định sẽ phải làm những công việc gì, cần những dụng cụ và vật liệu nào, phân nhóm ra sao. Ngoài ra, tôi còn tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể lành mạnh thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tôi “bày trận” ở những tiết hoạt động tập thể, đa dạng về hình thức. Các em có thể chơi cầu lông, đọc truyện tranh, chơi trò chơi dân gian,...( chọn những trò chơi dân gian bổ ích, thiết thực)...Khi theo dõi các em chơi, tôi rất vui và đã chủ động tham gia cùng các em. Khi tham gia các trò chơi bổ ích, tôi để ý và phát triển năng lực và sở trường từng em. Đây là việc làm hết sức quan trọng để tôi hiểu được mặt mạnh của từng em, từng nhóm để có biện pháp giáo dục tích cực và toàn diện, thông qua những niềm vui, niềm hân hoan hiện rõ trên khuôn mặt từng em. Khuyến khích học sinh tham gia chủ động, tự giác. Bên cạnh đó, tôi còn tạo sân chơi lành mạnh, dựa vào chủ điểm tháng trong chương trình: Qua đó, tôi muốn giáo dục học sinh tham gia tốt những hoạt động xã hội, biết đem đến niềm vui cho người khác, các phong trào đó chính là sân chơi lành mạnh, cần thiết để các em được thể hiện mình. Nó còn là tiêu chí để tôi giúp các em học sinh phát huy tối đa năng lực vốn có thực sự của mình ở trong học tập cũng như trong mọi hoạt động. Sau khi trải nghiệm, tôi tổ chức cho các em ghi chép lại những cảm xúc của mình. C: KẾT LUẬN 1. Những kết quả đạt được: Những biện pháp trên được tôi áp dụng trong năm học này, bước đầu tôi nhận thấy, các em học sinh lớp 3A1 có nhiều chuyển biến tích cực sau: Đầu năm Cuối HK1 Năng lực Hoàn Hoàn Hoàn Hoàn thành tốt thành thành tốt thành Tự phục vụ, tự quản 17/42 25/42 Hợp tác 17/42 25/42 Tự học và giải quết các vấn đề 17/42 25/42 Phẩm chất Đầu năm HK1 Tốt Đạt Tốt Đạt Chăm học, chăm làm 16/42 26/42 Tự tin, trách nhiệm 16/42 26/42 Trung thực, kỹ luật 16/42 26/42 Đoàn kết, yêu thương 16/42 26/42 8 - Hầu hết các em đều chủ động trong học tập, biết làm việc theo tài liệu học, không còn rụt rè, thiếu tự tin trong các hoạt động. - Nhiều em phát huy được các năng lực sở trường: năng lực điều hành hoạt động học tập và các hoạt động tập thể, năng lực tự quản, năng lực hợp tác, năng lực đặt câu hỏi... - Không khí lớp học vui vẻ, đoàn kết, hợp tác, học sinh hứng thú và có tinh thần học tập tốt hơn, nhiều em chủ động đề xuất hoạt động tập thể theo các chủ điểm. Kết quả học tập cao dần theo các kì. 2. Bài học kinh nghiệm Trải qua những năm thực hiện kế hoạch “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và thực hiện theo Văn bản hợp nhất số 03 của Bộ GD&ĐT về đánh giá học sinh tiểu học, tôi thấy mình đã có sự thành công nhất định với các biện pháp đã đề ra. Trong năm học này, học sinh thích đi học, tự tin, mạnh dạn, chuyên cần hơn, làm bài tốt hơn và lễ phép, trật tự hơn. Các em biết sống có trách nhiệm, biết giúp đỡ bạn bè, kính trọng thầy cô và biết chia sẻ nhiều hơn. Chính những kết quả trên là động lực để bản thân tôi không ngừng học hỏi để tiếp tục tìm ra những biện pháp hữu hiệu hơn nữa, giúp các em học sinh phát huy tối đa năng lực, phẩm chất vốn có và hình thành những năng lực, phẩm chất mới phù hợp với yêu cầu của xã hội. Chúng ta luôn tạo một môi trường thuận lợi và tốt nhất cho các em để các em được phát tiển năng lực của mình và thấy rằng “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Càng gần gũi các em thì mình sẽ thấy được ở thế giới quanh các em có nhiều điều thú vị. Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc “Nâng cao chất lượng giáo dục thông qua việc tăng cường phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 3A1. Rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và các đồng nghiệp để bổ sung thêm những biện pháp và kinh nghiệm mới hữu ích hơn trong dạy học hiện nay./. Long Điền Đông, ngày 20 tháng 02 năm 2020 Người thực hiện: 9
Tài liệu đính kèm: