I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Tiếng Việt là môn học trung tâm và chiếm thời lượng lớn nhất trong chương trình bậc Tiểu học. Tiếng Việt không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết mà còn có vai trò to lớn trong việc hình thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người, góp phần thực hiện nhiệm vụ của hệ thống giáo dục quốc dân thể hiện qua phân môn Tập đọc, luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện, Chính tả.
Trong năm phân môn của Tiếng Việt, Tập đọc có vị trí đặc biệt. Phân môn Tập đọc không chỉ hình thành cho học sinh kĩ năng đọc- một kĩ năng quan trọng mà còn trang bị cho học sinh những kiến thức ban đầu về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, con người; tình cảm gia đình, bạn bè; tình yêu quê hương, đất nước Qua các bài đọc, học sinh tiếp xúc với nhiều loại hình văn bản, nhất là văn bản nghệ thuật, giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn cho học sinh.
Thông tin chung về sáng kiến 1. tên sáng kiến: Dạy học tập đọc lớp 3 theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phân môn tập đọc trong chương trình Tiếng Việt lớp 3. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 5 tháng 9 năm 2011 đến ngày 25 tháng 5 năm 2012. 4. Tác giả: Họ và tên: Cao Thị Tuyết Năm sinh: 1987 Nơi thường trú: Giao Hương- Giao Thuỷ – Nam Định. Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường Tiểu học Giao Hương. Địa chỉ liên hệ: Điện thoại: 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường Tiểu học Giao Hương. Địa chỉ: Xóm 5- Giao Hương- Giao Thuỷ – Nam Định Điện thoại:03503740024 I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: Tiếng Việt là môn học trung tâm và chiếm thời lượng lớn nhất trong chương trình bậc Tiểu học. Tiếng Việt không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết mà còn có vai trò to lớn trong việc hình thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người, góp phần thực hiện nhiệm vụ của hệ thống giáo dục quốc dân thể hiện qua phân môn Tập đọc, luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện, Chính tả. Trong năm phân môn của Tiếng Việt, Tập đọc có vị trí đặc biệt. Phân môn Tập đọc không chỉ hình thành cho học sinh kĩ năng đọc- một kĩ năng quan trọng mà còn trang bị cho học sinh những kiến thức ban đầu về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, con người; tình cảm gia đình, bạn bè; tình yêu quê hương, đất nướcQua các bài đọc, học sinh tiếp xúc với nhiều loại hình văn bản, nhất là văn bản nghệ thuật, giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn cho học sinh. Thực tế trong dạy học tập đọc theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm còn nhiều hạn chế. Mặt khác do thời lượng học có hạn, lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh ngày càng nhiều. Dạy học theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm sẽ đạt hiệu quả cao. Việc tìm ra một phương pháp dạy học đạt kết hiệu quả cao là mong muốn của mọi giáo viên. Đối với tôi lựa chọn đề tài “ Dạy học tập đọc lớp 3 theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm” để tích luỹ kiến thức, giúp cho việc giảng dạy được tốt hơn. II. Thực trạng (trước khi tạo ra sáng kiến) 1.Quan điểm tích cực hoá hoạt động của học sinh thể hiện trong sách giáo khoa Tiếng Viêt. Để tìm hiểu vấn đề này, trước hết cần hiểu thế nào là tích cực? Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành bằng con đương truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ năng này học sinh phải được học tập trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo. Các kiến thức về ngôn ngữ, văn học, văn hoá, tự nhiên và xã hội có thể được tiếp thu qua lời giảng nhưng học sinh chỉ làm chủ được kiến thức khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy, những tư tương và tình cảm, nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua việc việc rèn luỵên trong thực tế. Tích cực hoá hoạt động của người học được hiểu là phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, trong đó thầy cô đóng vai trò là người tổ chức hoạt động cho học sinh. Mỗi học sinh đều được học tập, được bộc lộ mình và phát triển. Tích cực gồm tích cực bên trong thể hiện trong vận động tư duy trí nhớ, những chấn động của những cung bậc cảm xúc và tích cực bên ngoài lộ ra ở thái độ với công việc. SGK Tiếng Việt không dạy kiến thức lí thuyết như là cái có sẵn mà tổ chức hoạt động để học sinh nắm được kiến thức sơ giản và có kĩ năng sử dụng Tiếng Việt tốt. Ví dụ trong SGK Tiếng Việt 3, tập 1, trang 8 để dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh dựa vào kiến thức đã học từ lớp 2 giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ chỉ sự vật trong một khổ thơ, sau đó tìm những sự vật được so sánh với nhau; rồi mở rộng ra một số câu văn, câu thơ khác giúp học sinh nắm chắc kiến thức mới thu nhận được. Bên cạnh đó, SGK Tiếng Việt cũng chú trọng tổ chức những hoạt động tự nhiên để rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh. Ví dụ một trong hai bài tập làm văn ở trang 102, SGK tiếng việt 3 yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh về một cảnh đẹp ở nước ta và nói những điều em biết về cảnh đẹp ấy. 2. phương pháp dạy học truyền thống. Với phương pháp này chủ yếu giáo viên thuyết trình giảng giải. Giáo viên trình bày những kiến thức có sẵn bằng vốn kinh nghiệm của mình, trò chỉ nghe và ghi nhớ những điều mà giáo viên giảng. Giáo án đã được thiết kế theo đường thẳng chung cho cả lớp. Với hình thức dạy học này, chỗ ngồi của học sinh luôn luôn cố định, được tiến hành trong phòng học, bảng đen. Là nơi thu hút sự chú ý của học sinh ảnh hưởng đến sự phát triển tự nhiên của các em. III. Các giải pháp. 1.yêu cầu của phân môn Tập đọc lớp 3 Môn tập đọc lớp 3 nhằm phát triển kĩ năng đọc và nghe cho học sinh. cụ thể là: Kĩ năng đọc thành tiếng: Phát âm đúng. Ngắt nghỉ hơi hợp lí. Cường độ đọc vừa phải(không đọc quá to hay đọc quá nhỏ). Tốc độ đọc vừa phải, đạt yêu cầu tối thiểu 70 tiếng/ phút. Kĩ năng đọc thầm và hiểu nội dung bài: Biết đọc thầm, không mấp máy môi. Hiểu được các từ ngữ trong văn cảnh(bài đọc); nắm được nội dung các câu, đoạn và ý nghĩa của bài. Có khả năng trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung từng đoạn hay toàn bài đọc, biết phát biểu ý kiến của bản thân về một nhân vật hoặc một vấn đề trong bài học. Kĩ năng nghe: Nghe và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài. Nghe – hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy, cô. Nghe – hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn. 2. Đổi mới phương pháp dạy học. 2.1 phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh là trung tâm Với phương pháp này, học sinh được hoạt động nhiều, trong giờ học, hình thức đối thoại được sử dụng nhiều. Học sinh được tiến hành đối thoại với bạn, với thầy. Thầy hướng dẫn học sinh cách làm, cách học, cách giải quyết vấn đề, học sinh tự tìm ra kiến thức, tự đánh giá, điều chỉnh. ưu điểm của phương pháp này là học sinh phát triển cao hơn về nhận thức và độc lập sáng tạo hình thành thói quen tự học. Trong các em luôn được chủ động tìm ra cái mới, cách làm cho các em hiểu sâu, nhớ lâu, vận dụng tốt kiến thức vào cuộc sống. 2.2 Các biện pháp, hình thức tổ chức luyên đọc để phát huy tính tự giác tích cực của học sinh. 1.Luyện đọc a.Đọc mẫu: trong giờ tập đọc, giáo viên cần sử dụng biện pháp đọc mẫu cho học sinh . ở lớp 3 biện pháp này cần cân nhắc kĩ nhằm thể hiện rõ mục đích dạy học đồng thời phát huy tính sáng tạo của học sinh. + Đọc mẫu từ, cụm từ: nhằm sửa phát âm sai, điều chỉnh cách đọc đúng góp phần nâng cao ý thức viết đúng chính tả cho học sinh. + Đọc câu, đoạn: nhằm hướng dẫn để học sinh tự nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc đúng, đọc diễn cảmVì vậy khi hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng, luyện đọc diễn cảm trong từng trường hợp giáo viên phải đọc mẫu cho học sinh. Để kích thích tư duy sáng tạo và tích cực hoá hoạt động của học sinh giáo viên nên kết hợp với biện pháp gợi mở, vấn đáp. Trước khi đọc mẫu, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi : cần ngắt nghỉ hơi thế nào? Nhấn giọng ở nhữg từ ngữ nào?... b.Tổ chức luyện đọc cho học sinh +GV cho một học sinh khá đọc lại toàn bài. + Tổ chức cho học sinh đọc nối tiếp theo đoạn. Giáo viên theo dõi và chỉnh sửa cách đọc cho học sinh. + GV gọi học sinh đọc lại toàn bài. + GV đọc mẫu toàn bài. c.Luyện đọc lại + Luyện đọc lại được tổ chức sau khi học sinh tìm hiểu bài. Vì vậy giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại một đoạn để thăm dò khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung thông qua giọng đọc của học sinh. + GV gợi ý để học sinh phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm và tự tìm cách đọc hợp lí. Ví dụ giáo viên có thể hỏi : đoạn văn được đọc với giọng vui hay buồn? Để làm rõ tính cách nhân vật , bạn chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời của nhân vật được đọc với giọng ra sao?... GV đọc mẫu minh hoạ, gợi ý hoặc tạo tình huống cho học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Tạo điều kiện cho học sinh thực hành luyện đọc toàn bài (theo cặp, nhóm). Tổ chức cho học sinh thi đọc trước lớp để học sinh học hỏi lẫn nhau. d. Luyện đọc thầm. Đọc thầm được tổ chức trong quá trình hướng dẫn tìm hiểu bài. Đọc thầm là đọc bằng mắt nhằm thu thập thông tin và cảm thụ văn bản. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản. Trong đọc thầm cần chú ý thao tác đọc lướt để nắm ý hoặc chọn ý. Để kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh, giáo viên có thể thực hiện các cách sau: quy định thời gian đọc thầm cho từng đoạn, bài; kết quả đọc thầm còn được thể hiện qua nội dung trả lời câu hỏi mà giáo viên đặt ra. 2 Giải nghĩa từ. Việc giải nghĩa từ được tổ chức ngay sau khi học sinh luyện đọc đoạn. Để đọc đúng, chính xác học sinh phải hiểu nghĩa của một số từ. Các từ được chọn để giải nghĩa cho học sinh không chỉ là những từ mới, từ khó mà là những từ chìa khoá có quan hệ trực tiếp với chủ đề của bài. Để giải nghĩa từ có nhiều biện pháp khác nhau. Tuy nhiên cần giới hạn trong phạm vi bài học, tránh mở rộng ra các nghĩa lạ, bao gồm: -Giải nghĩa từ bằng trực quan: đối chiếu từ với tranh, ảnh hoặc vật thật. Ví dụ từ khăn mùi xoa trong bài Bài tập làm văn ( Tiếng Việt 3, tập 1, trang 46,47) giáo viên có thể cho học sinh quan sát khăn mùi soa. - Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh: Giáo viên đặt từ cần giải thích vào ngữ cảnh cụ thể để giải thích cho học sinh bởi trong từng ngữ cảnh khác nhau nghĩa của các từ cũng khác nhau. Nếu không đặt trong ngữ cảnh học sinh sẽ không hiểu nghĩa của từ dẫn đến không hiểu nghĩa văn bản. Ví dụ bài Nhớ lại buổi đầu đi học (Tiếng Việt , tập 1, trang 52) từ ngập ngừng có nghĩa là vừa muốn làm lại vừa e ngại, chưa biết làm như thế nào. -Giải nghĩa bằng cách phân tích từ tố. Ví dụ: từ đồng bào thì đồng: cùng; bào: màng bọc thai nhi. Đồng bào chỉ những người cùng giống nòi, cùng đất nước. - Giải nghĩa bằng định nghĩa: đây là biện pháp giải nghĩa phổ biến nhất trong sách giáo khoa bằng cách nêu nội dung của từ. Ví dụ từ khung thành :khung có căng lưới ở cuối sân, nếu để đối phương đưa bóng vào là thua.( Tiếng Việt 3, tập 1, trang 55). Giải nghĩa từ trong giờ tập đọc là rất quan trọng. Để giúp học sinh nắm được nghĩa của từ, giáo viên phải sử dụng linh hoạt các cách giải nghĩa để học sinh dễ dàng hiểu nghĩa của từ. Hiểu được nghĩa của từ, học sinh cũng phần nào hiểu được nội dung văn bản, hiểu các biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng. Từ đó học sinh không chỉ được mở rộng vốn từ mà còn được cảm thụ văn bản. 3 Tìm hiểu bài. Tìm hiểu bài nhằm giúp học sinh hiểu nội dung của bài vì vậy cần khai thác có hiệu quả các câu hỏi có trong sách giáo khoa. Hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa rất đa dạng, phong phú. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài giáo viên có thể sử dụng nguyên văn các câu hỏi; có thể thêm từ, thay đổi câu cho phù hợp với trình độ của học sinh; cũng có thể tách thành các câu hỏi nhỏ nhằm giúp học sinh khai thác tốt hơn nội dung của bài. bước tìm hiểu bài cũng chính là bước rèn năng lực cảm thụ văn cho học sinh thông qua hệ thống các câu hỏi, bài tập. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn cho học sinh là rất cần thiết vì có cảm thụ văn tốt các em mới cảm nhận nhiều cái đẹp của văn thơ, làm phong phú cho tâm hồn. Khi hướng dẫn các em tìm hiểu bài giáo viên có thể giúp các em làm quen từ câu hỏi dễ đến câu hỏi khó; từ những câu hỏi nhận biết đến những câu hỏi nhận xét, đánh giá. Sau đó học sinh mới trả lời đến câu hỏi nhận biết. Khi biết nhận xét nhân vật, chi tiết nghệ thuật học sinh sẽ phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong khi đọc hiểu các tác phẩm văn học. Trong giờ tập đọc nên khuyến khích các em nêu nhận xét, ý kiến của mình về nhân vật; về những chi tiết, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật góp phần làm lên cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Học sinh nhận biết tư tưởng, tình cảm của tác giả trong tác phẩm. Từ đó các em biết đồng cảm, chia sẻ với những nỗi niềm, tâm sự của tác giả và mọi người xung quanh vì mỗi tác phẩm là một thông điệp mà nhà văn gửi gắm tới bạn đọc. Nhiều câu hỏi ở cuối bài đọc yêu cầu học sinh bộc lộ cảm xúc của mình về tâm trạng, nỗi lòng của tác giả. Mỗi tác phẩm đều có ý nghĩa giá trị riêng. Việc giúp học sinh hiểu ý nghĩa, giá trị của tác phẩm cũng nhằm hình thành năng lực cảm thụ văn cho học sinh. Từ đó các em khám phá thế giới văn học nghệ thuật. Các em biết yêu tiếng Việt, ham học tiếng Việt. *Biện pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung bài. - Nêu rõ câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm đoạn, bài và trả lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, học sinh khác đọc thầm sau đó trao đổi, thảo luận theo vấn đề giáo viên đưa ra. -Tuỳ theo trình độ của học sinh, tuỳ theo mức độ khó dễ của câu hỏi trong sách giáo khoa mà giáo viên có thể chia tách thành các câu hỏi nhỏ hoặc sử dụng nguyên văn câu hỏi đó. Giáo viên có thể bổ sung câu hỏi để giúp học sinh tìm hiểu bài một cách dễ dàng, có hiệu quả. Bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh học tập tích cực như trao đổi ý kiến và trả lời câu hỏi, báo cáo kết quả. Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cũng cần rèn cho học sinh trả lời các câu hỏi, diễn đạt bằng câu văn ngắn gọn, rõ ràng, dùng từ chính xác. Giáo viên chốt lại ý đúng và ghi nội dung chính lên bảng. *Nhận xét chung Như vậy dạy học tập đọc lớp 3 theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. ở đó giáo viên là người có vai trò tổ chức, hướng dẫn điều khiển hoạt động của người học. Do đó tư duy của học sinh cũng dần phát triển. Hơn nữa,qua các bài tập đọc, các em thêm yêu đất nước, con người Việt Nam; trân trọng, tự hào về những giá trị lịch sử của dân tộc ta. 3. Quy trình dạy tập đọc lớp 3 theo hương phát huy tính tích cực của học sinh. 3.1Ghi bảng Nội dung ghi bảng nói chung cần ngắn gọn xúc tích đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Hình thức trình bày bảng cần mang tính thẩm mỹ có tác dụng giáo dục cho học sinh. Việc ghi bảng cần được kết hợp nhịp nhàng với tiến trình dạy học nhằm đem lại hiệu quả trực quan tốt nhất. Do vậy giáo viên nên ghi bảng như sau: Thứ.ngày.thángnăm Tập đọc Tên bài tập đọc Luyện đọc Tìm hiểu bài Ghi từ, cụm từ, câu, đoạn ngắn.cần luyện đọc và học thuộc lòng. Ghi từ ngữ, hình ảnh, chi tiết nổi bật cần ghi cần nhớ , ý chính của đoạn, khổ thơ, bài. 3.2Quy trình giảng dạy tập đọc đạt hiệu quả Kiểm tra bài cũ GV yêu cầu học sinh đọc hoặc học thuộc lòng bài đã học ở tiết trước. Giáo viên có thể hỏi thêm về nội dung đoạn, bài đã học để củng cố kỹ năng đọc hiểu. Dạy bài mới *Giới thiệu bài: GV có thể dùng tranh ảnh minh hoạ bằng lời hoặc đặt câu hỏi nêu vấn đề nhằm gây hứng thú cho học sinh. HĐ1: Luyện đọc GV đọc mẫu sau đó hướng dẫn HS luyện đọc kết hợp giải nghĩa từ theo các bước sau: + Đọc nối tiếp từng câu; mục đích của bước đọc này nhằm chia nhỏ văn bản cho nhiều học sinh được đọc, giúp giáo viên phát hiện cách đọc, cách phát âm của từng học sinh. GV chỉ cho học sinh dừng lại khi giúp học sinh sửa lỗi nếu có em phát âm sai; khen ngợi những học sinh đọc tốt. + Đọc nối tiếp từng đoạn: tạo điều kiện cho giáo viên giúp học sinh đọc đúng những câu đặc biệt, nghỉ hơi đúng, hiểu đúng từ ngữ- làm mẫu cho học sinh đọc đúng khi đọc theo cặp, theo nhóm nhỏ. +Đọc từng đoạn trong nhóm: tạo điều kiện cho tất cả học sinh trong lớp được luyện đọc. HĐ2: Hướng dẫn HS tìm hiểu bài Khi tìm hiểu bài, học sinh chủ yếu đọc thầm. Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể để kiểm soát kết quả đọc. HĐ3: Luyện đọc lại hoặc học thuộc lòng để nâng cao chất lượng đọc. + Giáo viên đọc diễn cảm từng đoạn hay cả bài; lưu ý học sinh về giọng điệu chung của đoạn hoặc bài, những câu cần chú ý. Do đó tuỳ trình độ của học sinh , giáo viên có thể xác định mức độ đọc cho phù hợp. + Từng học sinh hoặc nhóm học sinh thi đọc. Giáo viên uốn nắn cách đọc cho học sinh. nếu có yêu cầu học thuộc lòng, bước luyện đọc lại sẽ thay bằng học thuộc lòng. V.Hiệu quả do sáng kiến đem lại. Qua quỏ trỡnh vừa nghiờn cứu chuyờn đề vừa ỏp dụng vào thực tế giảng dạy tụi nhận thấy rằng những phương phỏp dạy học mà tụi ỏp dụng đó cú những kết quả đỏng mừng. Kết quả khảo sỏt lần thứ nhất với bài “Ông ngoại” kết quả thu được như sau: Sĩ số Giỏi Khỏ TB Yếu 34 0 12(35,3% ) 14( 41,2 % ) 8( 23,5% ) Sau khi kiểm tra, khảo sỏt chất lượng, học sinh trung bình và yếu cũn nhiều và số học sinh giỏi chưa có.Tụi đó thảo luận trong tổ nhúm vào những buổi sinh hoạt chuyờn mụn để tỡm ra cỏch giảng dạy phự hợp với nhận thức của học sinh nhằm giỳp học sinh nắm bắt bài tốt hơn, nõng cao chất lượng hiệu quả bộ mụn. Sau khi ỏp dụng cỏc đổi mới phương phỏp dạy theo chuyờn đề.Tụi đó khảo sỏt lần thứ hai kết quả cho thấy: Sĩ số Giỏi Khỏ TB Yếu 34 5(14,7%) 20 (58,8% ) 9(26,5% ) 0 * Kết quả khảo sỏt cho thấy chất lượng của học sinh đó được nõng lờn rừ rệt. Cụ thể các em đã nắm được kiến thức một cách chủ động, tích cực không mệt mỏi và vận dụng tốt vào bài tập. Giáo viên không phải hoạt động nhiều mà chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn cho học sinh. * Kết quả trờn đó chứng minh được chuyờn đề của tụi đó cú hiệu quả đi đỳng theo sự chỉ đạo của nhà trường và của ngành đề ra. Cho đến nay tụi vẫn tiếp tục thực hiện và phỏt huy những mặt đó đạt được, khắc phục những mặt cũn tồn đọng để nõng cao chất lượng dạy học hơn nữa. Trong quỏ trỡnh thực hiện chuyờn đề: “Dạy học tập đọc lớp 3 theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm” tụi đó tham khảo cỏc tài liệu dạy học của phõn mụn cũng như học hỏi kinh nghiệm từ bạn bố đồng nghiệp, chuyờn đề đó hoàn thành. Tuy nhiên, chuyờn đề của tụi cũng khụng trỏnh khỏi những thiếu sút. Tụi rất mong được sự đúng gúp ý kiến của bạn bố đồng nghiệp để chuyờn đề của tụi cú tớnh khả thi hơn. V. Một số ý kiến đề xuất. - Nhà trường cần tạo điều kiện về sơ sở vật chất, thiết bị dạy học trong mỗi tiết học để tiết học đạt hiệu quả cao. Giao Hương, thỏng 3 năm 2012 Người viết Cao Thị Tuyết Cơ quan đơn vị áp dụng sáng kiến (Xác nhận, đánh giá, xếp loại) . (Kí tên, đóng dấu) (Khối phòng GD _ ĐT) phòng GD _ ĐT (Xác nhận, đánh giá, xếp loại) .. (LĐ phòng kí tên, đóng dấu)
Tài liệu đính kèm: