Chuyên đề : "Giúp học sinh lớp 3 học tốt phép chia" - Đỗ Văn Vũ

Chuyên đề : "Giúp học sinh lớp 3 học tốt phép chia" - Đỗ Văn Vũ

I. TÌNH HÌNH THỰC TRẠNG.

Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu tìm hiểu nội dung chương trình dạy học phép chia ở lớp 3 có một số hạn chế như sau:

1. Nội dung chương trình SGK :

Ở lớp 3 học sinh được học về phép chia với thời gian là 46 tiết học không kể những tiết ôn tập cuối năm, trong đó :

 - Kỳ I: 37 tiết

 - Kỳ II: 11 tiết

Hệ thống bài luyện tập thực hành đã được đưa vào theo các dạng bài khác nhau nhưng chưa đa dạng.

Tuy nhiên qua thực tế tôi nhận thấy những tiết mà cung cấp kiến thức về phép chia mà sách giáo khoa đưa ra còn sơ giản và đại khái trong khi đó hệ thống bài tập lại khá phức tạp. Phần thực hành yêu cầu học sinh giải quyết những dạng bài tập đòi hỏi phải có những thao tác kỹ năng mà các em chưa được rèn luyện nhiều. Các tiết luyện tập chưa nhiều.

Ví dụ : Chia số có 2 chữ số cho số có một chữ số.

 

doc 15 trang Người đăng phuongvy22 Ngày đăng 22/01/2022 Lượt xem 526Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề : "Giúp học sinh lớp 3 học tốt phép chia" - Đỗ Văn Vũ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề : "Giúp học sinh lớp 3 học tốt phép chia"
Người thực hiện : Đỗ Văn Vũ
Tổ chuyên môn : 2 + 3
Năm học : 2012 - 2013
I. TÌNH HÌNH THỰC TRẠNG.
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu tìm hiểu nội dung chương trình dạy học phép chia ở lớp 3 có một số hạn chế như sau:
1. Nội dung chương trình SGK :
Ở lớp 3 học sinh được học về phép chia với thời gian là 46 tiết học không kể những tiết ôn tập cuối năm, trong đó :	
	- Kỳ I: 	37 tiết
	- Kỳ II: 	11 tiết
Hệ thống bài luyện tập thực hành đã được đưa vào theo các dạng bài khác nhau nhưng chưa đa dạng.
Tuy nhiên qua thực tế tôi nhận thấy những tiết mà cung cấp kiến thức về phép chia mà sách giáo khoa đưa ra còn sơ giản và đại khái trong khi đó hệ thống bài tập lại khá phức tạp. Phần thực hành yêu cầu học sinh giải quyết những dạng bài tập đòi hỏi phải có những thao tác kỹ năng mà các em chưa được rèn luyện nhiều. Các tiết luyện tập chưa nhiều.
Ví dụ : Chia số có 2 chữ số cho số có một chữ số. 
Ở mảng này có nhiều dạng bài :
* Chia hết :
- Chia số có 2 chữ số tròn chục : 60 : 3, 40 : 2.
- Chia hết ở mỗi lần chia là một chữ số : 62 : 2, 84 : 4.
* Chia có dư : 
- Phép chia có dư 1 lần : Dư ở lần chia lần 1 là hàng chục
Chính vì vậy tôi nhận thấy thực hiện được yêu cầu mà sách giáo khoa đưa ra không phải là một dễ đối với học sinh đại trà.
2. Về phía giáo viên :
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học được quan tâm đặc biệt ở các bậc tiểu học và trong cả các môn học. Việc đổi mới phương pháp dạy học có ảnh hưởng và tác động không nhỏ tới môn toán. Đại đa số giáo viên đã cập nhật được cái mới, giảng dạy có hiệu quả hơn, chất lượng học tập của học sinh được đánh giá cao hơn. Nội dung dạy học phép chia ở lớp 3 là một ví dụ, học phép chia ở lớp 3 là một mảng kiến thức khó với học sinh song dưới sự giảng dạy của giáo viên học sinh tiếp thu bài theo hướng tích cực, chủ động và hứng thú.
	Tuy vậy đây là mảng kiến thức khó nên giáo viên cung thường gặp phải một số khó khăn trong quá trình giảng dạy cụ thể là :
- Một số giáo viên do trình độ còn hạn chế việc cập nhật cái mới chưa kịp thời nên vẫn giảng theo kiểu dạy học truyền thống - thầy giảng trò ghi nhớ do vậy kết quả học tập chưa cao.
- Một số giáo viên cho rằng việc học phép chia ở lớp 3 là kiến thức quá dễ với học sinh nên coi nhẹ mà không hiểu rằng dạy phép chia cho học sinh lớp 3 là mảng kiến thức tương đối khó với các em đòi hỏi các em không chỉ học thuộc các bảng chia mà còn phải biết vận dụng chia trong các trường hợp cụ thể. Đây là kiến thức cơ bản, là nền tảng để các em học tiếp các lớp sau.
- Một số ít giáo viên do quá coi trọng mảng kiến thức này nên cũng gây cho học sinh tâm lí nặng nề khi học.
- Một số giáo vên còn lơ là trong việc kiểm tra, việc nắm kiến thức của học sinh.
3.Về phía học sinh :
 Đại đa số học sinh vẫn còn một số tồn tại và gặp phải một số khó khăn khi học về phép chia trong chương trình Toán 3. Cụ thể là:
- Một số học sinh do việc lập bảng chia còn lúng túng. Không thuộc bảng chia nên việc áp dụng thực hành làm bài tập gặp rất nhiều khó khăn.
- Một số học sinh do nhầm lẫn với thứ tự thực hiện phép cộng, phép trừ nên thực hiện phép chia theo thứ tự từ trái sang phải.
Ví dụ: Khi thực hiện phép chia 36 : 3, học sinh tiến hành như sau:
- 6 chia 3 được 2 viết 2, 2 nhân với 3 bằng 6, 6 trừ đi 6 bằng 0
- hạ 3, 3 chia 3 được 1, viết 1, 1 nhân 3 bằng 3, 3 trừ 3 bằng f0.
Vậy 36: 3 = 21
- Học sinh khi thực hiện phép chia mà ở một hàng nào đó của số bị chia không chia được cho số chia thường không thêm 0 vào thương mà hạ ngay hàng tiếp theo của số bị chia để thực hiện chia.
II. VÊn ®Ò cÇn gi¶i quyÕt.
1. Giúp học sinh học tốt về bảng nhân, chia.
Bắt đầu lên lớp 2, các em phải làm quen với bảng cửu chương, không thuộc cửu chương thì không thể làm phép tính nhân, chia. Nhưng làm thế nào để các em dễ học, chủ động và dễ tiếp thu bảng cửu chương nhất thì không phải gi¸o viªn nào cũng biết cách hướng dẫn các em hiệu quả. Giúp các em học thuộc, nhớ lâu bảng cửu chương, một phần bắt buộc của môn Toán.
Thực tế hàng ngày, việc học bảng cửu chương của các em là một việc tốn rất nhiều thời gian và khó khăn. Có những học sinh bộc bạch rằng: “Sau một thời gian dài để học, em đã học thuộc đến bảng nhân 7 rồi. Nhưng bảng nhân 8 và bảng nhân 9 em đã cố gắng học mà vẫn chưa thuộc, chưa nhớ được”.
Nếu có hỏi bất chợt một vài phép nhân trong những bảng mà học sinh đã thuộc (ví dụ: 7×8, 4×9, 5×7,), là các em lại lẩm nhẩm từ đầu bảng: 7×1 = 7, 7×2 = 14, 7×8 = 56, mất rất nhiều thời gian.
Thấy vậy, tôi bảo rằng, nếu em đã thuộc đến bảng 7 rồi, về nhà em ôn lại cho chắc, còn bảng 8 em học thuộc cho thầy 3 dòng cuối (8×8, 8×9, 8×10), và bảng 9, em học thuộc cho thầy 2 dòng cuối cùng: 9×9, 9×10. Ngày mai đến trường, thầy hướng dẫn, tự em sẽ học thuộc được cả bảng cửu chương. Học sinh đó hồ hởi hứa rằng có mấy dòng cuối đó thôi, sáng mai sẽ thuộc.
Sáng hôm sau các em đÒu háo hức khoe rằng em đã thuộc các dòng mà thầy bảo học, liền đọc thuộc các dòng đó rất rõ ràng. Tôi liền bảo như vậy là các em đã học thuộc hết bảng cửu chương rồi đấy, có điều là các em chưa hiểu và nhận ra bản chất thôi:
Ta xét từ bảng nhân 8:
8×1 = 1×8 = 8
8×2 =  2×8 = 16
8×3 = 3×8 = 24
8×4 = 4×8 = 32
8×5 =  5×8 = 40
8×6 = 6×8 = 48
8×7 = 7×8 = 56
8×8 = 64 (Học mới)
8×9 = 72 (Học mới)
8×10 = 80 (Học mới)
Tôi gợi ý các em nên ôn và nhớ lại tính chất giao hoán của phép nhân số tự nhiên: a×b = b×a.
Ví dụ: Em chưa thuộc 8×4 bằng bao nhiêu, vậy ở bảng 4, em cho biết 4×8 bằng bao nhiêu? (=32). (8×4 = 4×8 = 32).
Vậy đã thuộc đến bảng nhân 7, học bảng nhân 8, em chỉ cần học 2 dòng cuối. Tương tự, đã thuộc bảng nhân 8, học bảng nhân 9 em chỉ cần học thuộc 1 dòng cuối:
9×1 = 1×9 = 9
9×2 = 2×9 = 18
9×3 = 3×9 = 27 (có sẵn trong các bảng đã thuộc)
9×4 = 4×9 = 36
9×5 = 5×9 = 45
9×6 = 6×9 = 54
9×7 = 7×9 = 63
9×8 = 8×9 = 72
9×9 = 81 (cần học mới)
9×10 = 90 (cần học mới)
Các bảng nhân khác tương tự như vậy.
Như vậy học sinh vừa dễ học, dễ nhớ lại chủ động học một cách sáng tạo. Kể từ bảng nhân 2 trở đi, cứ sau mỗi bảng, số dòng ta cần học thuộc mới sẽ giảm dần đi.
Kinh nghiệm từ đó trở đi, các em chủ động học rất nhanh thuộc và nhớ lâu, lại hiểu bản chất vấn đề, nên nếu lỡ quên thì cũng dễ khắc phục, lại khơi dậy sự sáng tạo.
2. H­íng dÉn häc sinh vµ rèn kĩ năng ước lượng thương.
Việc rèn kĩ năng ước lượng thương là cả một quá trình. Thực tế của vấn đề này là tìm cách nhẩm nhanh thương của phép chia. Để làm việc này, ta thường cho học sinh làm tròn số bị chia và số chia để dự đoán chữ số ấy. Sau đó nhân lại để thử. Nếu tích vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, nếu tích còn kém số bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ số ấy. Như vậy, muốn ước lượng thương cho tốt, học sinh phải thuộc các bảng nhân chia và biết nhân nhẩm trừ nhẩm nhanh. Bên cạnh đó, các em cũng phải biết cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật. Cách làm như sau:
 * Làm giảm số bị chia ở mỗi lần chia :
 Nếu số bị chia mà khi chia cho số chia không có trong bảng chia thì ta làm giảm số bị chia (tức là bớt đi 1; 2 hoặc 3 đơn  vị ở số bị chia để chia). 
 Ví dụ 1 : 
 Muốn ước lượng 17 : 8 = ?  Ta làm giảm xuống 1 đơn vị là 16  : 8 được 2 , sau đó thử lại : 2 x 8 = 16 để có kết quả 17 : 8 = 2. Trên thực tế việc làm giảm số đó 1,2 hoặc 3 đơn vị để thử chọn khi chia giúp tìm thương đúng cho mỗi lần chia.
Ví dụ 2 : 258: 4 = ?
- Lần chia thứ nhất : Lấy 25 : 4, 25 : 4 không có trong bảng chia 4, giảm 25 đi 1 đơn vị ta được 24, 24 : 4 = 6, 6 x 4 = 24, 25 – 24 bằng 1.
- Lần chia thứ hai : Hạ 8, thành 18, 18 : 4 không có trong bảng chia 4, giảm 18 đi 1 là 17 : 4 không có trong bảng chia 4, tiếp tục giảm 17 đi 1 đơn vị ta được 16 : 4 = 4, 4 x 4 = 16, 18 – 16 = 2, dư 2.
Trong thực tế, các việc làm trên được tiến hành trong sơ đồ của thuật tính chia ( viết ) với các phép thử thông qua nhân nhẩm và trừ nhẩm. Nếu học sinh chưa nhân nhẩm và trừ nhẩm thành thạo thì lúc đầu có thể cho các em làm tính vào nháp, hoặc viết bằng bút chì, nếu sai thì tẩy đi rồi điều chỉnh lại.
 Để việc giảm số được đơn giản, ta cũng có thể chỉ yêu cầu học sinh làm giảm số bị chia ở mỗi lần chia theo đúng quy tắc : giảm lần lượt 1,2,3đơn vị.. Chẳng hạn : trong ví dụ 2 nếu ta giảm số bị  chia từ 18 thành 17 thì kết quả ước lượng không được. Nên phải giảm tiếp. Nếu học sinh hiểu vấn đề thì giáo viên hướng dẫn các em ước lượng một lần chuẩn như ở VD2 : 18 : 4 (ta lấy 16:4 = 4).
 3. Lùa chän ph­¬ng ph¸p phï hîp.
a) Phương pháp dạy học nội dung phép chia trong toán 3 theo quan điểm đổi mới
Dựa trên định hướng đổi mới về phương pháp dạy học Toán 3 mỗi giáo viên phải đưa ra những phương pháp dạy học tối ưu nhất sao cho:
- Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh hoạt động và tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ của bài để chiếm lĩnh trí thức mới đồng thời thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học.
- Tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức mới trong sự đa dạng và phong phú của các bài tập thực hành, luyện tập. 
- Giáo viên xác định rõ kiến thức kĩ năng cần thực hành.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học.
- Nêu ra tình huống có vấn đề, hướng giải quyết vấn đề.
- Tổ chức cho mỗi học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng thu được trong thực hành, luyện tập ở nhiều hình thức khác nhau.
b) Tìm hiểu sách giáo viên, phương tiện hỗ trợ và sự hứng thú của học sinh.
* Sách giáo viên :
- ¦u điểm : đã định hướng được cho giáo viên các mục tiêu các hoạt động chính ở trên lớp và thể hiện được nội dung cơ bản của tiết học
- Hạn chế : Một số bài hướng dẫn còn sơ sài.
* Đồ dùng dạy học: 
- Ưu điểm: Mỗi giáo viên đứng lớp được trang bị một bộ đồ dùng dạy Toán nhưng các tấm bìa có các chấm tròn dạy các bảng nhân, chia còn nhỏ so với bảng lớp, học sinh quan sát khó. Giáo viên tự làm thêm đồ dùng phục vụ cho các trò chơi còn hạn chế, chưa đẹp nên giảm sự thu hút của học sinh.
- Hạn chế : Bộ đồ dùng toán của học sinh được trang bị mỗi em một bộ nhưng sau nhiều năm sử dụng đã bị mất mát chưa được bổ sung.
* Sự hứng thú của học sinh trong phần học phép chia:
Phép chia là phép tính khó đối với học sinh nhất là các tiết: “Chia số có 4 chữ số cho số có 1 chữ” được sắp xếp học liên tục nên gây khó khăn cho học sinh yếu kém, gây c ... ham gia của mỗi đối tượng học sinh trong các hoạt động học tập toán. Động viên và hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập của bản thân của bạn.
	Bên cạnh việc thực hiện tốt những điểm nêu trên người giáo viên còn cần phải biết phân loại nội dung dạy học phép chia thành từng tiểu loại nhỏ để ứng với mỗi loại có những phương pháp giảng dạy phù hợp có như thế thì hiệu quả học tập của học sinh mới cao.
 4. RÌn kÜ n¨ng cho häc sinh th«ng qua hÖ thèng bµi tËp.
Các dạng bài tập khi học phép chia ở lớp 3.
Trong quá trình dạy học phép chia ở lớp 3 các bài tập đưa ra được xếp vào các dạng cụ thể
	* Dạng 1: Các bài tập dạng "Chia trong bảng"
Đây là loại bài đặc trưng của phép chia. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy học toán nói chung và dạy học toán lớp 3 nói riêng" các bảng chia" có thể coi là "con đường độc đáo" để dẫn học sinh tới kho tàng trí thức về phép chi.
Khi học vể loại bài này học sinh cần:
- Thuộc bảng chia
- Biết chia nhẩm trong phạm vi bảng chia và giải các bài toán có lời văn có liên quan đến bảng chia
	Khi dạy các bài thuộc loại này chúng ta có thể tiến hành theo các bước sau đây:
1. Bước 1: Hướng dẫn học sinh lập bảng chia
	Giáo viên hướng dẫn học sinh dùng các tấm bìa có chấm tròn để lập lại bảng nhân, rồi từ tấm bìa đó để chuyển từ một công thức nhân thành một công thức chia tương ứng
Ví dụ: Bài, "Bảng chia 6"
	Giáo viên cho học sinh lấy ra một tấm bìa( có 6 chấm tròn), giáo viên "6 lấy 1 bằng mấy?" (6 lấy 1 lần bằng 6)
Giáo viên chỉ vào một tấm bìa có 6 chấm tròn thì được mấy nhóm ( 6 chấm tròn chia thành nhóm, mỗi nhóm có 6 chấm tròn thì được một nhóm; 6 chia 6 được 1) 
Giáo viên ghi bảng 6 : 6 = 1 
Giáo viên chỉ là gọi học sinh đọc 6 x 1 = 6
6 : 6 = 1 
Các công thức khác giáo viên làm tương tự
2. Bước 2. Ghi nhớ bảng chia
Giáo viên dùng nhiều hình thức khác nhau để giúp học sinh ghi nhớ bản chia vừa lập.
Ví dụ: Hình thức xóa dần.
Hình thức " thi lập lại bảng chia"
Hình thức đố.
3. Bước 3 : Thực hành.
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập trong SGK để củng cố lại các kiến thức vừa học.
- Các bài tập này rất phổ biến trong các tiết học vể bảng từ bảng 6 đến bảng 9 
- Số lượng bài tập:26 bài
* Ví dụ 1: Bài tập 2 trang 36
Tính: 28:7; 	 35:7;	 21:7; 14:7; 42:7; 42:6; 25:5; 49:7; 
* Dạng 2: Các bài tập dạng "Chia ngoài bảng"
Đây là loại bài mở rộng kiến thức bảng chia và dừng lại ở chia cho số có một chữ số. Nó là nền tảng để học sinh thực hiện chia cho số có 2.3.4... chữ số khi dạy các bài thuộc loại này chúng ta nên tiến hành theo các bước sau đây
Bước 1: Giáo viên đưa ra các bài tập áp dụng để học sinh nắm chắc hơn kiến thức
Bước 2:
Hướng dẫn học sinh làm lần lượt từng bài tập trong SGK 
* Các bài tập về chia có dư.
Ví dụ 1: Bài tập 1 trang 29 
17:5	19: 3	29:6	19:4
Ví dụ 2: Bài tập 1 trang 30
* Các bài tập về chia hết:
Ví dụ 1: Bài tập 1 trang 118
Ví dụ 2: Bài tập 1 trang 28
a) Đặt tính rồi tính
48 : 2; 	84 : 4	;	55 : 5; 	96 : 3
b) Đặt tính rồi tính theo mẫu:
Ví dụ 3: Bài tập 1 trang 163
Ví dụ 4: Bài tập 4 trang 165:
15000 : 3 ; 	24.000 : 4	;	56.000 : 7
* Dạng 3: Bài tập về thành phần chưa biết của phép tính nhân và phép tính chia.
Loại củng cố, loại này áp dụng cho các bài luyện tâp, ôn tập, giúp học sinh khái quát lại kiến thức này áp dụng và mở rộng kiến thức đã đạt được. Khi dạy loại bài này chứng ta có thể tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh thực hành, Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập trong sách giáo khoa và có thể tìm ra các kiến thức mới trong các bài đã làm.
Ví dụ: Dạy bài "luyện tập vể chia số có 4 chữ số cho số có một chữ số". Học sinh được thực hành bài tập
BT4: Tính nhẩm
6000 : 2= 
8000 : 4 = 
9000 : 3 =
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài rồi rút ra quy tăc làm.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh khái quát các kiến thức đã học, đã ôn trong bài.
Ví dụ: Sau khi làm song các bài tập trong tiết học " luyện tập vể chia số có 5 chữ số cho số có 1 chữ số GV đặt câu hỏi? Khi chia nếu 1 hàng nào đó của số bị chia không chia hết cho số chia để chia tiếp ta làm như thế nào
Ví dụ 1: Bài 2 trang 39
Tìm x: 
x x 7= 2107	8x x =1640	 x x 9 = 2763
 - x x 7 = 2107 
? Đọc yêu cầu bài toán ?
? Nêu các thành phần của phép tính ?
(x là thừa số, 7 là thừa số, 2107 là tích)
? Tìm thành phần gì ? ( Tìm thừa số)
? Cách tìm thừa số ? ( Lấy tích chia cho thừa số kia – 2107 : 7)
	 - x x 7 = 2107
 x = 2107 : 7
 x = 301
Ví dụ 2: Bài 2 trang 39
Ví dụ 3: Bài tập 2 trang 219
* Dạng 4: Các bài tập dạng tính giá trị của biểu thức (có liên quan đến phép chia)
Ở dạng bài này, tôi hướng dẫn học sinh:
- Đọc kỹ đầu bài :
- Trong dãy phép tính, biểu thức có phép tính gì ?
- Cách làm dãy phép tính, biểu thức có phép mà đã nêu ?
- Trình bày đẹp.
Tôi chia dạng bài tập này thành 2 dạng nhỏ :
Biểu thức không có dấu ngoặc
Ví dụ 1: Bài tập 2 trang 79
Tính giá trị cùa biểu thức
64: 8 + 30	306 + 93 : 3
69218 - 26736 :3	30507 + 27876 :3
Biểu thức có chứa dấu ngoặc
Ví dụ 1: Bài tập 3 trang 83
Tính giá trị của biểu thức:
a) 72 : (2 x 4 )
 64 : (8 : 4 )
Ví dụ 2: Bài tập 3 trang 163
Tính giá trị của biểu thức:
a) (35281 + 51465) :2
(1545 - 8221) ;4
	Khi đã phân chia ra các dạng nhỏ, để giúp các em nắm các quy tắc tính cho từng dạng cụ thể.
- Biểu thức chỉ có phép tính nhân và chia hoặc cộng và trừ. ( ta thực hiện phép tính từ trái qua phải)
- Biểu thức chỉ có phép tính cộng, trừ, nhân, chia. ( ta thực hiện phép tính nhân chia trước, cộng trừ sau)
- Biểu thức có chứa dấu ngoặc đơn ( ta là các phép tính trong ngoặc trước, ngoài ngoặc sau)
Khi thực hiện tính giá trị của biểu thức các em còn hay sai. Do các em nắm các quy tắc về thứ tự thực hiện các phép tính trong một biểu thức một cách máymóc hay học vẹt
 ( đọc thuộc quy tắc nhưng khi thực hiện lại sai ) .
	Ví dụ :
	86 – 10 x 4 = 40 - 86
 = 46 ( sai ) ( 1 )
 24 : 3 x 2 = 24 : 6 
 = 4 ( sai ) ( 2 )
	Học sinh hay nhầm lẫn trong quá trình thực hiện tính . Vì khi vận dụng quy tắc :
 “ Đối với biểu thức không có dấu ngoặc đơn và có các phép tính cộng, trừ, nhân, chia ( làm tính nhân chia trước , cộng trừ sau )”.
	+ Sai lầm ở trường hợp ( 1 ). Do các em hiểu là nhân trước nên các em ghi ngay kết quả lên trước .
	+ Sai lầm ở trường hợp ( 2 ). Do các em chưa nhớ kỹ quy tắc còn nhầm lẫn giữa quy tắc này và quy tắc kia.
* Trường hợp học sinh thực hiện tính giá trị biểu thức còn nhầm lẫn : 
	Ví dụ :
	60 + 35 : 5 = 60 + 7
	 = 67 ( đúng ) 
	hoặc : có học sinh ghi .
	60 + 35 : 5 = 7 + 60 
	 = 67 vẫn đúng 
Tuy nhiên do suy luận của các em chưa lôgic;chưa hiểu số bản chất của dãy tính. Vì thế khi dạy học sinh thực hiện tính giá trị của biểu thức học sinh cần nhắc lại quy tắc về thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức .
	Để giúp học sinh nắm các quy tắc thực hiện tính giá trị biểu thức, ngoài các bài tập ở SGK, giáo viên cần cho học sinh làm các bài tập cùng dạng , nhưng với các số khác nhau .
	Giáo viên cần uốn nắn những sai lầm của học sinh mắc phải một cách kịp thời .
	* Giáo viên cần lưu ý ngay, để học sinh có thói quen. Bằng cách đưa ra ví dụ cho học sinh hiểu rõ vì sao phải như vậy .
	Ví dụ : 86 - 10 x 4 = 86 - 40 
	 = 46
	Tránh trường hợp các em ghi 
	86 - 10 x 4 = 40 - 86
	 = 46
	Vì các em nói là nhân trước, trừ sau và ghi như vậy .
	Chẳng hạn, khi làm bài tập 71 - 16 : 2 nếu học sinh không nhớ quy tắc đã học thì nói chung cũng khó có thể làm sai vì ( 55 không chia hết cho 2 ) ,nhưng ta đổi thành : 96-60:3 thì buộc học sinh phải nhớ quy tắc mới làm đúng được :
	Ví dụ : 96 - 60 : 3 = 96 - 20 96 - 60 : 3 = 96 : 3
	 = 76 ( đúng ) = 12 ( sai ) 
	Hoặc : 24 : 3 x 2 = 8 x 2 24 : 3 x 2 = 24 : 6
	 = 16	( đúng ) = 4 ( sai )
	Học sinh cũng nhầm lẫn như vậy. Vì thế giáo viên cần nhấn mạnh là “ hai phép nhân chia là bình đẳng” nghĩa là phép nào viết trước thì làm trước, có như vậy thực hiện mới đúng kết quả .
* Dạng 5: Các dạng bài tập dạng so sánh biểu thức (có liên quan đến phép chia)
Ví dụ 1: Bài 3 trang 79
55 : 5 x 3 ........32	30..........(70 + 23 ) : 3
25 + 5.......40 : 2 +6 	120........484 : (2 + 2 )
* Bài tập trắc nghiệm 
Ví dụ 1: Bài tập 2 trang 30
Đúng ghi Đ, sai ghi S
* Dạng 6: Toán có lời văn liên quan đến phép chia 
Ở dạng bài này, tôi hướng dẫn học sinh theo các bước sau:
- Đọc kỹ đầu bài :
- Bài toán cho gì, hỏi gì ?
- Bài toán thuộc dạng toán nào ?
- Trình bày bài giải đẹp.
Ví dụ 1: Bài tập 3 trang 57
Một con lợn cân nặng 42kg, một con ngỗng nặng 6kg. Hỏi con lợn cân nặng gấp mấy lần con ngỗng?
Tôi hướng dẫn học sinh giải :
Gọi 2,3 học sinh đọc bài toán.
? Bài toán cho gì, hỏi gì ? (Một con lợn cân nặng 42kg, một con ngỗng nặng 6kg)
- Bài toán thuộc dạng toán nào ? ( số lớn gấp mấy lần số bé)
- Muốn biết con lợn cân nặng gấp mấy lần con ngỗng ta làm thế nào ? ( lấy số cân của con lợn chia cho số cân của con ngỗng)
Bài giải
Con lợn cân nặng gấp số lần con ngỗng là :
42 : 6 = 7 (lần)
 Đáp số : 7 lần
Ví dụ 2: Bài tập 2 trang 62 ( tương tự VD1)
III. KẾT LUẬN .
	Với nội dung dạy phép chia ở lớp 3 cũng vậy để thực hiện được yêu cầu đề ra người giáo viên cần phải tìm hiểu lại nội dung và phương pháp dạy về phép chia để:
- Thấy được những điểm mới trong dạy phép chia ở lớp 3. 
- Thấy được dụng ý trong cách sắp xếp từng bài học từng nội dung học.
- Nắm vững cách sắp xếp các bài tập trong từng bài học để có cách giảng dạy phù hợp.
Giáo viên cũng tìm ra các bài tập khó có hướng dẫn học sinh sao cho để hiểu nhất.
Giáo viên cũng cần để ra các phương pháp giảng dạy phù hợp cho các nội dung học.
Đối với học sinh cần có sự quan tâm của giáo viên đến tất cả các đối tượng học sinh để các em đạt được mục tiêu giáo dục để ra và phát triển được tư duy cho học sinh khá giỏi tạo điều kiện cho các em phát triển về mọi mặt.
	Nghiên cứu kỹ nội dung chương trình và phương pháp dạy phép chia ở lớp 3 giúp giáo viên nâng cao trình độ về toán học và phương pháp dạy học qua nghiên cứu học tập các tài liệu có liên quan. Từ đó giúp cho việc giảng dạy đạt hiệu quả cao.
	Do trình độ còn hạn chế nên chuyên để này sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp để hoàn thiện hơn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
 Thµnh C«ng, ngµy 25 th¸ng 2 n¨m 2013
Ng­êi thùc hiÖn
 Đỗ Văn Vũ

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_giup_hoc_sinh_lop_3_hoc_tot_phep_chia_do_van_vu.doc