Tập đọc là phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong Chương trình Tiếng Việt ở tiểu học. Dạy tốt phân môn này không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú tạo điều kiện để các em học tốt các môn học khác. Rèn kĩ năng đọc cho học sinh như đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng, rành mạch, đọc hay là để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, về ngôn ngữ và ngược lại khi hiểu được những văn bản đọc sẽ giúp cho học sinh hiểu được đọc hay. Vì vậy giữa việc đọc đúng, đọc hiểu là hai quá trình có liên quan, gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Qua việc đọc học sinh chiếm lĩnh được tri thức văn hóa của dân tộc, tiếp thu được văn minh của loài người thông qua sách vở. Qua việc đọc, học sinh biết đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Qua hoạt động đọc, tình cảm, thẩm mĩ của các em được nâng lên cao, tầm hiểu biết của các em nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình nhận thức cũng có chiều sâu hơn. Đọc hiểu là kĩ năng ngôn ngữ văn học. Qua đó có tác dụng giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát triển óc sáng tạo và khả năng tư duy cho các em.
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Tập đọc là phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong Chương trình Tiếng Việt ở tiểu học. Dạy tốt phân môn này không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú tạo điều kiện để các em học tốt các môn học khác. Rèn kĩ năng đọc cho học sinh như đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng, rành mạch, đọc hay là để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, về ngôn ngữ và ngược lại khi hiểu được những văn bản đọc sẽ giúp cho học sinh hiểu được đọc hay. Vì vậy giữa việc đọc đúng, đọc hiểu là hai quá trình có liên quan, gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Qua việc đọc học sinh chiếm lĩnh được tri thức văn hóa của dân tộc, tiếp thu được văn minh của loài người thông qua sách vở. Qua việc đọc, học sinh biết đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Qua hoạt động đọc, tình cảm, thẩm mĩ của các em được nâng lên cao, tầm hiểu biết của các em nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình nhận thức cũng có chiều sâu hơn. Đọc hiểu là kĩ năng ngôn ngữ văn học. Qua đó có tác dụng giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát triển óc sáng tạo và khả năng tư duy cho các em. 1.1. Yêu cầu nhiệm vụ dạy học: Phân môn tập đọc có nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Đọc là một dạng hoạt động lời nói, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết (mã hóa) sang lời nói có âm thanh (giải mã) và không hiểu nó (đọc thành tiếng) là quá trình chuyển tiếp từ hình thức chữ viết thành đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm). Như vậy cả hai hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm đều không thể tách rời đối với hiểu văn bản đọc. Bốn kĩ năng của đọc (đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc hay) được hình thành trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ: đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và đọc hay được. Nhờ đọc đúng mà hiểu đúng, hay chính nhờ hiểu mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy học, không thể xem nhẹ kĩ năng nào cũng như không thể tách rời chúng. Dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Thông qua việc đọc phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng đọc là có ích lợi cho các em trong cả cuộc đời. Phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. Như vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn, vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Nó trở thành một đòi hỏi, một nhu cầu đối với người đi học. Đọc là một khả năng không thể thiếu được của con người trong xã hội ngày nay. 1.2. Xuất phát từ thực tế dạy học của phân môn dạy tập đọc, qua nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy, tôi thấy còn có nhiều điều bất cập về phương pháp giảng dạy và nội dung câu hỏi sách giáo khoa, về trình độ học sinh, đội ngũ giáo viên có nhiều vấn đề cần phải làm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy và học tập đọc nói chung và dạy rèn kĩ năng đọc hiểu nói riêng ở tiểu học chưa cao. Bởi về trình độ giáo viên không đồng đều, việc dạy tập đọc còn mang tính truyền thống. Dạy chủ yếu là thầy truyền thụ, học sinh nắm bắt tri thức một cách thụ động và nhiều khi dạy còn mang tính chất áp đặt (về cách hiểu nội dung bài, cách đọc bài). Trong khi dạy giáo viên còn giảng giải quá nhiều từ khó, về ý nghĩa của bài mà còn xem nhẹ phần luyện đọc, ít chú ý đến việc đọc hiểu của học sinh và không biết rằng học sinh đó có hiểu tốt văn bản hay không. Học sinh thì không quan tâm đến phương pháp đọc của mình. Do đó các em rất yếu về năng lực di chuyển kĩ năng đọc được hình thành ở các lớp trước, các bài học trước để giải quyết những vấn đề yêu cầu của bài học mới. Mặt khác do nhiều câu hỏi chưa thật phù hợp với trình độ học sinh, nhiều khi câu hỏi còn mang tính áp đặt và khó hiểu làm cho học sinh không hứng thú và thấy nhàm chán. Qua việc đo thử nghiệm ở trường tiểu học, tôi thấy kết quả như sau: Biết cách đọc thầm để nhanh chóng tự hiểu nội dung bài đọc 29,2 % Biết đọc phần chú giải để hiểu đúng một số chi tiết trong bài 25,0 % Biết cách xác định đề tài của bài 8,3 % Biết cách suy nghĩ tìm ra điều mà tác giả muốn nói với người đọc 4,2 % Biết biểu hiện điều mình hiểu qua giọng đọc 16,7% Kết quả trên cho thấy cách dạy tập đọc và tài liệu dạy tập đọc ở lớp 3 chưa tạo ra năng lực tự đọc ở học sinh, vì chưa chú trọng việc dạy học sinh cách đọc văn bản và ứng xử với những điều đọc được. Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn của xã hội hiện nay, cần phải đào tạo thế hệ học sinh trở thành những con người năng động, sáng tạo trong cuộc sống, đáp ứng, đòi hỏi được nhu cầu của xã hội. 1.3. Xuất phát từ nhu cầu về nâng cao nghiệp vụ của bản thân. Hiện nay, tôi thấy cần phải đổi mới phương pháp và trau rồi kiến thức chuyên môn để nâng cao năng lực của mình, phù hợp với xu hướng thời đại – Thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế, mà tôi đã chọn đề tài nghiên cứu này, mong phần nào giúp các em nâng cao trình độ đọc hiểu, để từ đó các em nắm bắt được một cách sâu sắc hơn những gì mà bài tập đọc đưa đến cho các em. 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Phân môn Tập đọc, cụ thế là : “Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 3 bằng hệ thống câu hỏi” 2.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu lí luận để nhận thức đúng về khái niệm đọc, rèn kĩ năng đọc hiểu, xây dựng các hình thức câu hỏi để tìm hiểu khả năng đọc của học sinh. Việc hiểu được coi là một then chốt của quá trình đọc hiểu, nằm ngay trong quá trình học. Do vậy việc xây dựng các câu hỏi giúp học sinh nắm chắc nội dung văn bản để đọc đúng, đọc hay là mục đích của đề tài. Thông qua câu hỏi xây dựng các nội dung để hiểu văn bản, thực nghiệm để Xem xét các ứng dụng của vấn đề trong thực tế việc dạy tập đọc để nâng cao hiệu quả, khắc phục tình trạng bất cập giúp học sinh hiểu hơn nội dung văn bản được học. 3. Phương pháp nghiên cứu: 3.1. Phân tích các tài liệu dạy học Tôi đã đọc và tìm hiểu các loại sách: Sách tiếng Việt lớp 3 của giáo viên và học sinh ; sách bồi dưỡng giáo viên môn tiếng Việt ; giáo trình phương pháp giảng dạy và các tạp chí ; Hỏi và đáp về phương pháp dạy tập đọc ở tiểu học ; các tập san có liên quan đến đề tài. Thu thập các thông tin, xử lí các thông tin và tài liệu đó, nhằm nghiên cứu nội dung bài đọc được sâu hơn, chính xác hơn. 3.2. Phương pháp điều tra thực tế - Qua dự giờ, phỏng vấn, tọa đàm, trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo phụ trách chuyên môn của trường, của phòng. Tôi nhận thấy rằng các đồng chí giáo viên còn thiên về sử dụng phương pháp truyền thống, còn quá lệ thuộc vào nội dung câu hỏi ở sách giáo khoa và cách tổ chức các hoạt động ở sách hướng dẫn của giáo viên. Nên nhiều khi việc dạy và học còn mang tính áp đặt và hình thức. Do vậy hiệu quả giờ dạy tập đọc chưa cao. - Với học sinh, tôi dùng phương pháp thăm dò TEST vừa đóng vừa mở. Ví dụ: + Em có thích học môn này không ? + Tại sao em lại thích ? + Nếu thích lựa chọn em sẽ chọn môn nào ? + Vì sao em lại chọn môn đó ? + Em có hứng thú học môn này không ? + Vì sao em hứng thú ? ( hay vì sao không hứng thú ?) 3.3. Phương pháp dạy thực nghiệm: Dạy một bài ở lớp 3 Bài : Cửa Tùng Dùng phiếu thực nghiệm kiểm tra khả năng đọc hiểu của học sinh sau khi học xong. PHÂN NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI “Rèn kĩ năng đọc hiểu bằng hệ thống câu hỏi cho học sinh lớp 3” Mục tiêu của phân môn Tập đọc giúp học sinh: - Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp 1, 2 ; tăng cường tốc độ đọc, biết đọc lướt để chọn thông tin nhanh ; bước đầu biết đọc phân vai và đọc hay. - Phát triển kĩ năng đọc – hiểu lên mức cao hơn : nắm và vận dụng được một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,... để hiểu ý nghĩa của bài văn, thơ (yêu cầu trọng tâm). - Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình thành nhân cách của con người mới. 1.2. Nội dung dạy tập đọc lớp 3 - Phát triển các kĩ năng đọc và nghe cho HS Thông qua 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí, hành chính, khoa học, ... trong đó có 46 bài văn xuôi, 16 bài thơ. Phân môn Tập đọc lớp 3 tiếp tục phát triển các kĩ năng đọc và nghe cho HS, đọc thành tiếng, đọc thầm và hiểu nội dung, nghe nắm được cách đọc đúng, hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn. Qua phần hướng dẫn sư phạm cuối mỗi bài tập đọc, phân môn Tập đọc còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc – hiểu văn bản cụ thể là : Nhận biết đề tài, cấu trúc của bài Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để hiểu nội dung Phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn chương. Cùng với các phân môn Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, phân môn Tập đọc còn xây dựng cho học sinh thói quen tìm đọc sách ở thư viện, dùng sách công cụ ( từ điển, sổ tay từ ngữ, ngữ pháp) và ghi chép những thông tin cần thiết khi đọc. - Trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của HS về cuộc sống. - Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng ; tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống ; hứng thú đọc sách và yêu thích tiếng Việt. Do đó có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên, xã hội và đời sống, hình thành nhân cách cho học sinh. 1.3. Phương pháp dạy học chủ yếu Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy cô. Các kiến thức về ngôn ngữ, văn học, văn hóa, tự nhiên và xã hội có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được những kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý t ... : PHIẾU HỌC TẬP Bài: “Cửa Tùng” Họ và tên: Lớp : Trường : Câu 1: Tác giả đã chọn những chi tiết nào để tả cảnh hai bên bờ sông Bến Hải ? Câu 2: Nước biển Cửa Tùng có mấy sắc màu ? Đó là những màu nào ? Câu 3: Người xưa so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì ? Câu 4: Em hiểu thế nào là “Bà chúa của các bãi tắm” ? b. Nội dung giáo án: BÀI SOẠN NGHIÊN CỨU MÔN: TẬP ĐỌC Bài dạy: “Cửa Tùng” Người dạy: chủ đề tài Lớp dạy: 3B. Trường tiểu học Kì Sơn. I. MỤC TIÊU: - Đọc rành mạch, trôi chảy, bước đầu biết đọc với giọng có biểu cảm, ngắt nghỉ hơi đúng các câu văn. - Hiểu ND: Tả vẻ đẹp kì diệu của Cửa Tùng – một cửa biển thuộc miền Trung nước ta. - GDHS cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, từ đó thêm yêu quý môi trường xung quanh, có ý thức BVMT. II. ĐỒ DÙNG: Tranh minh hoạ bài trong SGK. Bản đồ Việt Nam. Một số tranh, ảnh về Cửa Tùng. Một chiếc nhẫn bạch kim. Nội dung phiếu học tập. Bảng phụ ghi nội dung cần hướng dẫn luyện đọc. III. HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC: Hoạt động của GV Hoạt động của HS Thuyết minh 1. Kiểm tra bài cũ: ( 5’ ) - Mỗi em kể lại một đoạn câu chuyện Người con của Tây Nguyên. - Câu chuyện ca ngợi ai? - HS, GV nhận xét, đánh giá. 2. Dạy bài mới: ( 30 – 32’ ) - GV treo tranh minh hoạ và yêu cầu HS kể các màu có trong bức tranh minh họa Cửa Tùng. - Giới thiệu: Bài tập đọc hôm nay sẽ đưa các em đến thăm Cửa Tùng một cửa biển đẹp nổi tiếng ở miền Trung. Cửa Tùng là một cửa biển kĩ vĩ, nước biển thay đổi theo tưng thời điểm trong ngày tạo nên bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. - Ghi tên bài lên bảng. 2.2. Luyện đọc a) Đọc mẫu - GV đọc mẫu toàn bài một lần. b) Hướng dẫn luyện đọc kết hợp giải nghĩa từ - Gọi đọc từng câu đến hết bài + GV theo dõi HS đọc và phát hiện tiếng, từ HS đọc chưa chuẩn và ghi lên bảng. VD: Cứu nước, lũy tre làng, nước biển xanh lơ, chiếc lược,... - Hướng dẫn đọc từng đoạn và kết hợp giải nghĩa từ khó. + Bài được viết xuống dòng mấy lần ? + GV : mỗi lần xuống dòng là một đoạn. Vậy bài được chia làm mấy đoạn ? + Yêu cầu HS đọc từng đoạn trước lớp. Theo dõi HS đọc bài và hướng dẫn nhấn giọng, ngắt, nghỉ hơi ở câu dài. + Theo em trong bài câu nào dài, khó đọc ? VD: Bình minh, /mặt trời như chiếc thau đỏ ối /chiếu xuống mặt biển,/ nước biển nhuộm màu hồng nhạt.// Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục.// Hoặc câu: Người xưa đã ...của sóng biển. + GV gạch chân 1 số từ và ngắt nghỉ hơi trong câu + GV cùng HS tập giải nghĩa 1 số từ khó + GV cho HS quan sát chiếc nhẫn bạch kim. + GV giảng thêm từ: dấu ấn lịch sử - Yêu cầu HS nối tiếp nhau đọc bài trước lớp, mỗi em đọc 1 đoạn. - Yêu cầu HS luyện đọc theo nhóm - Tổ chức thi đọc giữa các nhóm + HS, GV cổ vũ, động viên. 2.3. Hướng dẫn tìm hiểu bài: - Gọi HS đọc lại cả trước lớp - Yêu cầu HS đọc đoạn 1 + Cửa Tùng ở đâu ? + GV treo bản đồ, giới thiệu vị trí sông Bến Hải. + Câu 1: Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải thế nào ? - Yêu cầu HS đọc đoạn 2 của bài + Câu 2: Nước biển Cửa Tùng có mấy sắc màu ? Đó là những màu nào ? + Câu 3: Người xưa so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì ? + GV cho HS quan sát 1 số tranh, ảnh về Cửa Tùng + Câu 4: Em hiểu thế nào là “Bà chúa của các bãi tắm” + Hỏi thêm: Em thích nhất điều gì ở Cửa Tùng ? * GV củng cố: ý đúng và cho HS liên hệ về việc bảo vệ môi trường xung quanh, giáo dục HS có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi cảnh đẹp của quê hương, đất nước. 2.4. Luyện đọc lại bài: - Tổ chức cho HS luyện đọc lại đoạn 2 của bài - HS, GV nhận xét, bình chọn bạn đọc đúng, đọc hay nhất, động viên, ghi điểm. 3. Củng cố, dặn dò: ( 3’ ) - Nêu nội dung bài học hôm nay ? Bài viết về gì ? Ở đâu ? - Nhận xét tiết học, về chuẩn bị trước bài sau. - 2 HS lần lượt kể đoạn 2, 3 của truyện. - 1 HS trả lời. - HS quan sát tranh và kể ... - Nghe giới thiệu - 1 HS nhắc lại tên bài, lớp ghi vở. - Theo dõi GV đọc mẫu - HS nối tiếp nhau đọc câu - 1 số HS nhìn bảng đọc cá nhân, đồng thanh. - 1 HS trả lời:.. 3 lần. - 1 HS trả lời - 3 HS nối tiếp nhau đọc bài. - HS nêu - HS nêu nhấn giọng ; ngắt, nghỉ hơi trong câu văn. - 1 HS đọc chú giải SGK: Bến Hải, Hiền Lương, đồi mồi, bạch kim,.. - Nghe GV - 3 HS nối tiếp nhau đọc bài - Mỗi nhóm 3 HS, lần lượt từng HS đọc 1 đoạn trong nhóm. - 2 nhóm thi đọc tiếp nối. - 1 HS đọc - 1 HS đọc thành tiếng. - Nghe giảng - 1 HS trả lời - 1 HS đọc thành tiếng, HS cả lớp đọc thầm và tự đặt câu hỏi cho bạn trả lời. - 1 HS hỏi – 1 HS trả lời. - 1 – 2 HS lần lượt trả lời. - HS quan sát, cảm nhận vẻ đẹp. - 1 vài HS nêu - Vài HS phát biều theo suy nghĩ riêng của mình. - HS tự liên hệ - 1 HS đọc mẫu đoạn 2. - HS cả lớp tự luyện đọc. - 3 – 5 HS thi đọc đoạn 2 - 1 HS nêu - HS dưới lớp nghe và nhận xét bạn kể. - HS khác theo dõi bạn đọc. - Cả lớp đồng thanh. - GV treo bảng phụ viết câu HS nêu. - HS tự phát hiện cách đọc. - HS quan sát nhẫn và nhận biết bạch kim. - Cả lớp theo dõi. - Các nhóm khác theo dõi, bình chọn nhóm đọc tốt. - Cả lớp theo dõi. - Cả lớp đọc thầm theo. - 1 HS có thể lên chỉ trên bản đồ. - HS khác nhận xét, bổ sung. - HS thảo luận nhóm đôi. - HS khác nhận xét, bổ sung. - Cả lớp nghe. PHIẾU KIỂM TRA 15 PHÚT BÀI: Cửa Tùng Câu 1: Tìm trong bài những hình ảnh tả ảnh hai bên bờ sông Bến Hải ? Câu 2: Nêu những màu sắc thay đổi theo thời gian của nước biển Cửa Tùng ? Câu 3: Người xưa so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì ? C, Kết quả: Lớp Tổng số HS Điểm Giỏi Khá TB Yếu TS % TS % TS % TS % 3B dạy thực nghiệm 24 8 33 12 50 4 17 0 0 3A không dạy thực nghiệm 24 5 21 8 33 11 46 0 0 d) Nhận xét: Qua việc thực nghiệm dạy học, tôi thấy phương pháp dạy tập đọc hiểu bằng hệ thống câu hỏi có những ưu điểm sau: Hoạt động của học sinh đã trở thành hoạt động trung tâm trong giờ học. Học sinh được hoạt động tích cực, tự giác. Học sinh vừa hiều nội dung bài vừa hình thành và rèn luyện các thao tác đọc văn bản, phát huy được nhịp độ cá thể trong giờ học, tự đọc và tham gia đánh giá kết quả của mình, được giao lưu, hợp tác trong quá trình học, được rèn luyện để phát huy tư duy, phát huy tính năng động, sáng tạo để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Học sinh có những biến đổi về nhân cách như: thói quen đọc lập suy nghĩ, làm việc tự tin, ham học và năng lực hợp tác với bạn, hợp tác giữa các nhóm,... trong các công việc cần giải quyết. Kết quả học tập được nâng lên rõ rệt. Giáo viên có điều kiện tổ chức mọi hoạt động của học sinh, cùng HS tham gia nhận xét, đánh giá và tìm hiểu để cùng đưa ra kết luận đúng. Do đó mối quan hệ giữa thầy và trò gần gũi hơn, học sinh tự tin và năng động, sáng tạo hơn. Hệ thống câu hỏi đa dạng, hợp lí, phù hợp với trình độ học sinh, gây hứng thú, thi đua trong học tập. Rèn thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Chính vì vậy nên chất lượng đọc hiểu của học sinh theo giáo án thực nghiệm cao hơn thực tế dạy học.. Số lượng HS khá, giỏi tăng lên rõ rệt. Số HS đạt chuẩn về chất lượng đạt 100 %. PHẦN KẾT LUẬN Để học sinh tiểu học có năng lực và kĩ năng đọc hiểu, việc đầu tiên người thầy cần xác định rõ mục tiêu, nội dung dạy học cho từng giờ tập đọc, cần phải dạy đọc hiểu có định hướng, có kế hoạch ngay từ lớp đầu cấp, nhưng không phải bằng cách tăng thời gian tìm hiểu bài, giảm thời gian luyện đọc mà là coi trọng dung lượng đọc. Tức là xác định được nội dung đọc hiểu như xác định ngữ điệu nội dung từng đoạn của bài để xác định các yếu tố nghệ thuật và giá của chúng trong việc diễn đạt nội dung. Khi giảng dạy giáo viên cần chú ý đến nội dung của bài tập đọc, những bài có yếu tố nghệ thuật, tránh sự áp đặt. Cách chuyển những yếu tố nghệ thuật tới HS không chỉ lí thuyết giảng từ, đàm thoại mà phải thông qua rèn kĩ năng đọc hiểu bằng hệ thống câu hỏi cho HS. Qua nghiên cứu và thực hành dạy tập đọc hiểu thông qua việc sử dụng hệ thống câu hỏi, tôi thấy: Đây là một phương pháp có hiệu quả hơn hẳn so với phương pháp dạy học truyền thống. Song việc xây dựng các câu hỏi phải phù hợp với trình độ từ lớp, trường, từng bài cụ thể. Khi dạy, Giáo viên phải đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ nội dung bài, đọc câu hỏi SGK để chỉnh sửa cho hợp lí. Học sinh phải có đủ tài liệu, đồ dùng học tập và chuẩn bị bài chu đáo thì tiết học mới đạt hiệu quả cao. Mặt khác muốn việc dạy – học đạt hiệu quả cao, người thầy phải biết vận dụng phù hợp các phương pháp dạy học, bởi không một phương pháp nào là vạn năng cả. ĐỀ XUẤT CÁ NHÂN I. Đối với cấp cơ sở: 1, Đối với HS: - Cần chuẩn bị đọc và nghiên cứu nội dung bài trước khi đến lớp. - Trong lớp tích cực, chủ động học tập. - Có đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng để học tập 2, Đối với giáo viên: - Luôn say mê với nghề nghiệp, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục. - Tích cực học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp, học tập chuyên san, chuyên đề, tạp chí giáo dục Tiểu học. - Thường xuyên tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho bản thân để không ngừng đổi mới phương pháp dạy và học, đáp ứng nhu cầu học tập hiện nay. - Tạo điều kiện về thời gian để nghiên cứu kĩ nội dung bài học. Từ đó có biện pháp khắc phục, chỉnh sửa những câu hỏi khó, những từ ngữ còn diễn dạt vụng về, sắp xếp nội dung các câu hỏi sao cho phù hợp với mức độ phát triển tư duy của học sinh theo từng nội dung bài học. - Đi sâu đi sát học sinh để nắm được trình độ của từng em, của từng lớp mà giáo viên có yêu cầu cụ thể. II. Đối với các cấp lãnh đạo: - Cần có thêm trang thiết bị, tài liệu phù hợp hơn, để phục vụ cho giảng dạy. - Tăng cường tổ chức các hội thảo, chuyên đề để thống nhất về nội dung, phương pháp, khắc phục những mặt còn hạn chế về hệ thống câu hỏi ở SGK. Luôn chú ý chỉnh sửa nội dung câu hỏi cho phù hợp với thực tế đối tượng học sinh của từng vùng, miền trong từng bài học - Tạo điều về thời gian, về cơ sở chất để cho giáo viên đi sâu nghiên cứu về nội dung và phương pháp giảng dạy. Cần cắt bỏ những việc làm chỉ mang tính hình thức không hiệu quả cao trong giáo dục. Trên đây là một số kinh nghiệm của riêng tôi, xin mạnh dạn được trao đổi cùng các bạn. Trong quá trình thực hiện viết sáng kiến, không sao tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và sự giúp đỡ của các cấp lãnh đạo để bản sáng kiến thêm phong phú và hoàn thiện hơn. ..........., ngày ........tháng 3 năm 2012
Tài liệu đính kèm: