Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn ở Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn ở Lớp 3

 Trong môn học toán ở bậc Tiểu học, các bài toán đố có một vị trí quan trọng. Một phần lớn thời gian học sinh giành cho việc học giải các bài toán đố. Kết quả học toán của học sinh cũng được đánh giá trước hết qua khả năng giải toán, biết giải thành thạo các bài toán là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ học toán của mỗi học sinh. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học, về đo lường, về các yếu tố đại số, về các yếu tố hình học,. đã được học trong môn toán ở trường Tiểu học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán, chứ không phải qua con đường lý luận.

Thông qua nội dung thực tế nhiều hình nhiều vẻ của các đề toán, học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống; làm tốt điều Bác Hồ căn dặn: “Học đi đôi với hành”.

Mỗi đề toán là một bức tranh nhỏ của cuộc sống. Khi giải bài toán học sinh phải biết rút ra từ bức tranh ấy các bản chất toán học của nó, phải biết lựa chọn những phép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đố, biết đặt lời giải chính xác. Vì thế quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc sống qua con mắt toán học của mình.

Việc giải quyết các bài toán sẽ phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải toán học sinh phải biết tập trung chú ý vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, phải biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, biết phân tích để tìm ra những đường dây liên hệ giữa các số liệu. Nhờ đó mà đầu óc của các em sáng suốt hơn, tỉnh táo hơn, tư duy linh hoạt hơn, chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn.

Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự mình kiểm tra các kết quả. Do đó giải toán là một cách rất tốt để rèn luyện đức tính kiên trì, tự vượt khó, cẩn thận chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ chính xác.

Vì những tác dụng to lớn nói trên, nên việc giảng dạy như thế nào cho tốt đối với các em học sinh Tiểu học nói chung và các em học sinh lớp 3 nói riêng là điều trăn trở của nhiều giáo viên, bản thân tôi là người trực tiếp quản lý, tôi đã tìm tòi nghiên cứu rất kỹ nội dung, phương pháp truyền đạt kiến thức đến học sinh. Vì vậy tổ tôi chọn và nghiên cứu đẩntì“ Nâng cao chất lượng dạy giải toán có lời văn – bậc tiểu học”.

 

doc 14 trang Người đăng bachquangtuan Lượt xem 1679Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn ở Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Xuất phát từ thực tiễn triển khai thực hiện chương trình và các môn học khác theo chương trình Bộ trưởng Bộ GD & ĐT ban hành mà hiện nay đang được toàn xã hội quan tâm ở mức cao nhất về nội dung, chương trình, chất lượng dạy học.
Chất lượng giáo dục ở trong các nhà trường đã được nâng cao song vẫn còn hạn chế: Còn không ít thầy cô chưa khuyến khích học sinh học tập một cách chủ động, sáng tạo. Đặc biệt là vận dụng kiến thức đã học vào đời sống. Học sinh chưa khai thác hết khả năng tiềm ẩn trong nội dung bài học để từ đó tìm ra chìa khoá giải quyết vấn đề.
Mục tiêu của chuyên đề nhằm giúp cho giáo viên hiểu và thực hiện việc dạy học sinh giải toán có lời văn ở bậc Tiểu học nói chung có chất lượng. Mặt khác giúp cho công tác quản lý, công tác chỉ đạo hoạt động dạy- học. Tuy nhiên đè tài xây dựng không tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý kiến của BGH, của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
A- Phần mở đầu
 I- Lý do chọn đề tài:
 Trong môn học toán ở bậc Tiểu học, các bài toán đố có một vị trí quan trọng. Một phần lớn thời gian học sinh giành cho việc học giải các bài toán đố. Kết quả học toán của học sinh cũng được đánh giá trước hết qua khả năng giải toán, biết giải thành thạo các bài toán là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ học toán của mỗi học sinh. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học, về đo lường, về các yếu tố đại số, về các yếu tố hình học,... đã được học trong môn toán ở trường Tiểu học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán, chứ không phải qua con đường lý luận.
Thông qua nội dung thực tế nhiều hình nhiều vẻ của các đề toán, học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống; làm tốt điều Bác Hồ căn dặn: “Học đi đôi với hành”.
Mỗi đề toán là một bức tranh nhỏ của cuộc sống. Khi giải bài toán học sinh phải biết rút ra từ bức tranh ấy các bản chất toán học của nó, phải biết lựa chọn những phép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đố, biết đặt lời giải chính xác... Vì thế quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc sống qua con mắt toán học của mình.
Việc giải quyết các bài toán sẽ phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải toán học sinh phải biết tập trung chú ý vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, phải biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, biết phân tích để tìm ra những đường dây liên hệ giữa các số liệu... Nhờ đó mà đầu óc của các em sáng suốt hơn, tỉnh táo hơn, tư duy linh hoạt hơn, chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn.
Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự mình kiểm tra các kết quả... Do đó giải toán là một cách rất tốt để rèn luyện đức tính kiên trì, tự vượt khó, cẩn thận chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ chính xác...
Vì những tác dụng to lớn nói trên, nên việc giảng dạy như thế nào cho tốt đối với các em học sinh Tiểu học nói chung và các em học sinh lớp 3 nói riêng là điều trăn trở của nhiều giáo viên, bản thân tôi là người trực tiếp quản lý, tôi đã tìm tòi nghiên cứu rất kỹ nội dung, phương pháp truyền đạt kiến thức đến học sinh. Vì vậy tổ tôi chọn và nghiên cứu đẩntì“ Nâng cao chất lượng dạy giải toán có lời văn – bậc tiểu học”.
 II- Cơ sở lý luận:
Trong mỗi hoạt động nhận thức của học sinh Tiểu học, khi học các bài toán đố, các thao tác tư duy phân tích, tổng hợp và so sánh cùng với trí thông minh, óc sáng tạo diễn ra đan xen với nhau. khó có thể phân biệt rành rọt những thao tác tư duy ở các thời điểm cụ thể của quá trình nhận thức. Tuy nhiên với một nội dung hoạt động học tập cụ thể của quá trình nhận thức.
“ Toán có lời văn” là một bộ phận của môn Toán ở trường Tiểu học, có thể nói nó được học ngay từ lúc học sinh bắt đầu học môn Toán, nhưng nó vốn trừu tượng, nhiều hình nhiều vẻ của đề toán, đòi hỏi học sinh phải có óc phân tích: Phân biệt những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì không thuộc về bản chất của đề toán, để hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết. Các bài toán đố gắn liền với các yếu tố đại số, yếu tố hình học đã được học ở môn Toán. Càng lên lớp trên thì các em học tập mang tính trừu tượng vì lúc này tư duy của các em đã được phát triển từ trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng.
 III- Cơ sở thực tiễn:
 1.Thuận lợi:
 Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng dạy- học, chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn xây dựng được nề nếp tự học, bồi dưỡng thường xuyên trong hè để thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao tay nghề cho giáo viên.
Giáo viên đều được trang bị đầy đủ SGK, SGV, sách tham khảo và các phương tiện phục vụ cho việc dạy học. Đội ngũ giáo viên có năng lực sư phạm, yêu nghề nên khi tiếp cận thay sách, giáo viên đã vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh ngày một hiệu quả.
Học sinh đã quen với cách học mới từ các lớp 1, 2. Cho nên các em biết cách thực hành luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.
 2. Khó khăn:
 a) Đối với giáo viên: Môn Toán là một môn học đòi hỏi phải tư duy để khám phá những tiềm ẩn trong nội dung từng bài. Giáo viên dạy còn thiếu linh hoạt trong vận dụng các phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Việc cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết cho các em qua các bài của môn Toán và các môn học khác chưa được chú trọng. 
 b) Đối với học sinh: Mặt khác, do các em còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý nhận thức còn hạn chế, đặc biệt là toán đố, chưa đọc bài các em đã có cảm nhận là khó. Mặt khác, đọc đề chưa tập trung suy nghĩ, còn mang nặng tính trông chờ. Thậm chí vừa đọc đề xong cho là bài toán đơn giản làm ngay. Hoặc làm xong không đọc lại bài giải. Có lúc làm hai lời giải giống nhau mà phép tính lại khác nhau mà các em vẫn không phát hiện ra mình làm sai. Cứ thấy có hai lời giải là được rồi. Cũng có em hiểu nhầm, hiểu lệch vấn đề đưa ra của bài toán, không nắm được dữ liệu của bài toán, nên việc giải toán còn khó khăn, học sinh chưa biết tự phân tích để tìm ra những đường dây liên hệ giữa các số liệu, đặt lời giải chưa chính xác với phép tính,... 
B- Nội dung đề tài
I- Nội dung chương trình, yêu cầu kiến thức, kỹ năng giải toán có lời văn ở lớp 3.
 1. Nội dung chương trình toán lớp 3 gồm: 
- Chương trình môn Toán mỗi lớp tổng cộng là 175 tiết/năm; 5 tiết/ tuần; mỗi tiết 40 phút.
- Nội dung chương trình toán được cụ thể hoá thành nội dung các tiết học( bao gồm các tiết dạy bài mới, các tiết luyện tập, thực hành, luyện tập chung, ôn tập) như sau:
1.1- Ôn tập và bổ sung: 16 tiết.
1.2- Nhân, chia trong phạm vi 1000: 71 tiết.
1.3- Các số đến 10.000: 39 tiết.
1.4 Các số đến 100.000: 30 tiết.
1.5- Ôn tập cuối năm: 13 tiết.
Kiểm tra định kỳ: 4 tiết. 
 Như vậy, chương trình toán lớp 3 được chú trọng cả 5 yếu tố: Số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, yếu tố thống kê, giải toán. 
 2- Yêu cầu kiến thức, kỹ năng giải toán ở lớp 3.
 2.1- Yêu cầu kiến thức:
Giải các bài toán có đến hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản; Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị và bài toán có nội dung hình học.
 2.2- Yêu cầu kỹ năng:
Biết giải và trình bày bài giải có đến 2 phép tính. Giải 1 số dạng toán như: Tìm 1 trong các phần bằng nhau của 1 số; bài toán liên quan đến rút về đơn vị...
 2.3 - Các kiến thức cần nhớ:
 Giải toán có lời văn là một trong những yêu cầu cơ bản của việc học môn toán. Giải được bài toán có lời văn giúp học sinh phát triển trí thông minh, óc sáng tạo. Để giải được bài toán các em cần nắm vững kiến thức cơ bản:
 VD:-Tìm 1 trong các phần bằng nhau của 1 số.
 - Gấp (giảm) 1 số lên (đi) nhiều lần.
 - So sánh số lớn gấp mấy lần số bé.
 - So sánh số bé bằng 1 phần mấy số lớn.
 - Bài toán rút về đơn vị.
 * Các dạng toán:
- Dạng 1: Các bài toán đơn(bài toán giải bằng 1 phép tính).
- Dạng 2: Các bài toán hợp (bài toán giải bằng 2-3 phép tính).
 * Để làm tốt các bài toán dạng này, yêu cầu học sinh nắm được các bước cần thiết khi giải toán:
. Bước 1: Đọc kỹ đề toán, xác định cái đã cho và cái phải tìm.
. Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng.
. Bước 3: Phân tích bài toán để tìm kết quả.
. Bước 4: Giải bài toán và thử lại kết quả.
. Bước 5: Khai thác bài toán (tìm cách giải khác cho bài toán).
 2.4 -Yêu cầu đối với giáo viên:
- Giáo viên phải nắm được quan điểm đổi mới phương pháp dạy học toán theo chương trình và sách giáo khoa mới. Đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng.
- Xác định được các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong học toán.
- Phải thiết kế được 1 kế hoạch bài học thể hiện sự đổi mới của phương pháp dạy học môn toán.
Đó là toàn bộ YC, KT, KN trọng tâm mà HS cần đạt được trong giải toán và những YC đối với GV lớp 3 cần nắm để vận dụng khi dạy môn toán bậc tiểu học.
 II- Quy trình dạy tiết toán ở lớp 3:
*Dạy bài lý thuyết: 
1- Kiểm tra bài cũ: 3-5p.
2- Dạy bài mới:
 a) Giới thiệu bài: 1-2p.
 b) Hình thành kiến thức mới: 12-13p.
Phân tích dữ liệu ở phần I, II để hình thành kiến thức mới cho HS.
 c) HD thực hành: 15-17p.
 Từng bài tập tiến hành 5 bước:
 . Bước 1: Đọc kỹ đề toán, xác định cái đã cho và cái phải tìm.
 . Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng.
. Bước 3: Phân tích bài toán để tìm hướng giải.
. Bước 4: Giải bài toán và thử lại kết quả.
. Bước 5: Khai thác bài toán (tìm cách giải khác cho bài toán).
. Chấm, chữa bài – Nhận xét kết quả.
 d) Củng cố- dặn dò: 1-2p.
* Dạy bài luyện tập:
 1- Kiểm tra bài cũ: 3-5p.
 2- Dạy bài mới:
 a) Giới thiệu bài: 1-2p.
 b) HD luyện tập: 28-30p.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện từng bài tập trong SGK theo thứ tự chung.
- Từng bài tập HD học sinh theo các bước:
+ Đọc và xác định YC của đề toán.
+ HD giải 1 phần bài tập mẫu (phân tích đề toán).
+ Học sinh làm bài tập.
+ Chữa, chấm, nhận xét kết quả.
c) Củng cố-dặn dò: 1-2p.
 III- Các phương pháp dạy “giải toán  ... oán.
+ Tìm cách giải khác.
+ Rút ra nhận xét: Không nên cứ thấy thuật ngữ “nhiều hơn” là làm tính cộng. Trong bài toán này có thuật ngữ “nhiều hơn” nhưng ta lại phải sử dụng phép trừ, điều cốt yếu là phải đọc kỹ đề bài và thực hiện tốt 5 bước khi giải toán đố.
 Nếu tóm tắt đúng bài toán thì nhìn vào sơ đồ của bài toán các em sẽ thấy ngay phép tính của bài toán để tìm câu lời giải và đáp số đúng.
Từ bài toán đơn, giáo viên dẫn dắt cho học sinh đặt câu lời giải cho bài toán hợp.
 3. 2- Dạy các bài toán hợp:
- Dạng toán này được giải bằng 2 phép tính trở lên. Khi học đến dạng toán này, các em gặp rất nhiều khó khăn trong việc phân tích bài toán, HS chưa xác định được sự liên quan giữa các yếu tố trong bài toán. Việc phân tích bài toán sẽ giúp các em tách bài toán hợp thành nhiều bài toán đơn. Với mỗi phép tính của bài toán hợp sẽ có một câu trả lời tương ứng, Việc viết câu trả lời cho phép tính đầu tiên HS cũng rất lúng túng, nhiều em dùng ngay câu hỏi cuối bài để làm câu trả lời luôn cho bài (áp dụng máy móc của bài toán đơn). 
- Để giải được bài toán này, đòi hỏi HS phải có sự nhìn nhận, xem xét các yếu tố, phân tích bài toán. Bước phân tích bài toán của bài toán hợp là vô cùng quan trọng. GV giúp các em phân tích:
+ Suy nghĩ theo đường lối phân tích: Tập trung vào câu hỏi của bài toán, nghĩ xem muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết gì? phải làm phép tính gì? Trong những điều cần phải biết đó, cái nào đã cho sẵn trong đề toán, cái nào cần phải tìm? Muốn tìm được cái này cần phải làm phép tính gì?... Cứ như thế ta suy nghĩ ngược lên: Từ câu hỏi của bài toán trở về cái điều đã cho trong bài toán. 
+ Suy nghĩ theo đường lối tổng hợp: Có thể suy nghĩ xem từ điều đã cho trong bài toán ta có thể suy ra điều gì? Tính ngay được những cái gì? Từ những cái đó suy ra được điều gì giúp ích cho việc giải bài toán không? Cứ như thế suy luận dần dần: Từ những điều đã cho đến câu hỏi của bài toán.
Dù dạng bài toán thực hiện bằng những phép tính nào đi chăng nữa thì điều cốt yếu là HS phải làm tốt 5 bước cần thiết khi giải bài toán.
Ví dụ : Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Đối với dạng toán này, Đa số các em dựa vào câu hỏi của bài để viết câu lời giải cho phép tính đầu tiên, nhiều em làm luôn phép tính thứ 2 xuống cạnh phép tính thứ nhất mà không có lời giải, có 1 số em viết câu lời giải cho 2 phép tính đều giống nhau. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm trên là do HS chưa phân tích sâu đề toán, chưa tìm được mối liên hệ giữa các yếu tố của bài, học sinh hay mắc sai lầm sau:
+ Sai lời giải đầu:
VD: Số kg gạo đựng đều trong 7 bao là:
 28 : 7 = 4(kg)
 Số kg gạo đựng trong 5 bao là:
 4 x 5 = 20(kg)
+ Hay học sinh chỉ viết một câu lời giải mà ghi 2 phép tính.
VD: Số kg gạo đựng trong 5 bao là:
 28 : 7 = 4(kg)
 4 x 5 = 20(kg)
+ Thậm chí có em chỉ ghi một phép tính và một lời giải
 VD: Số kg gạo đưng trong 5 bao là:
 4 x 5 = 20(kg)
 Ngoài việc sai lời giải, học sinh còn sai đơn vị tính. Vì vậy giáo viên cần cho học sinh đọc kỹ bài. Nhận biết các dữ liệu của bài toán. 
+ Bài toán cho biết gì? (28kg gạo đựng đều trong 7 lít).
+ Bài toán hỏi gì? (5 bao đựng bao có bao nhiêu kg gạo?).
- Giáo viên đưa ra vấn đề buộc học sinh phải suy nghĩ:
+ Theo đầu bài thì ta có thể tính ngay 5 bao đựng bao nhiêu kg gạo được không? (Không)
+ Vì sao? (Vì chưa biết một bao đựng bao nhiêu kg gạo).
+ Tính 1 bao có bao nhiêu kg gạo tức là tìm gì trong dạng toán này? (Tìm giá trị một phần trong các phần bằng nhau).
+ Giá trị một phần ở đây là gì? (Giá trị một phần là 1 bao đựng số kg gạo)....
Khi giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị ta thường đi theo 2 bước:
*Bước 1: Tìm giá trị của 1 phần trong các phần bằng nhau ( Thực hiện phép chia).
Bước này rất quan trọng. GV không những cho học sinh biết cách tìm giá trị của 1 phần, mà học sinh phải biết 1 phần ở bài toán là gì? Muốn biết được học sinh phải dựa vào câu hỏi của bài toán. Bước này được gọi là bước rút về đơn vị.
 *Bước 2: - Tìm giá trị của nhiều phần bằng nhau thì ta thực hiện phép tính nhân.
 Tuỳ theo từng đề bài, HS cần đọc kỹ xem bài toán hỏi gì?
 - Tìm số phần bằng nhau của một giá trị thì ta thực hiện phép tính chia.
Vậy HS cần phân biệt được sự khác nhau của 2 dạng toán mà các em đã học, giải bằng 2 phép tính: 
+ Phép tính chia, rồi đến phép tính nhân.
+ Phép tính chia, rồi đến phép tính chia.
VD: Dạy bài trang 166 – BT1:
+ HD h/s thực hiện 2 bước:
*Bước 1: Muốn tìm xem 15kg đường đựng trong mấy túi thì phải tìm xem mỗi túi đựng mấy kg đường?
*Bước 2: 5kg đường đựng trong 1 túi thì 15kg đường đựng trong trong mấy túi?
 Số kg đường đựng trong mỗi túi là:
 40 : 8 = 5(kg)
 Số túi cần có để đựng hết 15kg đường là:
 15 : 5 = 3(túi)
 Đáp số: 3 túi. 
Điều quan trọng và đáng chú ý nhất khi làm toán dạng này, HS cần nắm được luôn đi theo 2 bước tính.
 4- Nắm vững kiến thức, kỹ năng của HS đã đạt được ở các lớp 1, 2:
- Để dạy tốt “Giải toán có lời văn”- bậc tiểu học, ngoài việc nắm chắc cấu trúc chương trình, yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và phương pháp môn Toán. GV còn phải nắm chắc kiến thức, kỹ năng mà h/s đã đạt được ở môn toán lớp 1, 2, 3, 4. 
- ở lớp 1, các em đã được học và biết cách đặt câu lời giải cho dạng toán đơn. Đến lớp 2, 3 các em tiếp tục được học nâng dần lên, HS đã nắm chắc cách giải toán đơn và bắt đầu được học cách giải các bài toán hợp. 
- GV phải nắm bắt được những kiến thức h/s đạt được sau khi học môn toán và cách đặt câu lời giải ở lớp 1, 2. Trên cơ sở đó, GV lựa chọn phương pháp cho việc dạy môn toán phù hợp với đối tượng.
 5- Tích hợp các môn học để nâng cao hiệu quả giờ dạy toán:
 5.1- Môn Tiếng Việt: Sự tích hợp các phân môn của môn Tiếng Việt như: Tập đọc, chính tả, tập làm văn, luyện từ và câu được thể hiện ở trên bài giải của HS. Để h/s giải bài và đặt lời giải đúng, đòi hỏi các em phải biết đọc, biết đặt câu đủ ý, viết đúng chính tả.
 5.2- Tích hợp kiến thức qua các môn học khác: Môn mỹ thuật, Tự nhiên – xã hội, môn Đạo đức, thể dục, rèn cho HS khả năng quan sát, óc tìm tòi, lòng ham học hỏi, ham hiểu biết, trình bày khoa học, vẽ hình chính xác, có tính kiên trì, trung thực, có sức khoẻ,...đó là những yếu tố cần thiết cho HS học toán. 
 6- Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức trong một tiết dạy:
Trong tiết dạy, GV cần sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học như: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại, độc thoại, ... để HS không nhàm chán mà còn gây hứng thú cho các em.
 7- Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học:
- Muốn phát huy được tính tích cực của HS, GV cần chú ý tới mọi đối tượng HS. GV phân loại HS theo các mức (giỏi, khá, trung bình, yếu) để khích lệ tất cả HS học tập.
 - Mỗi bài toán GV phải có hệ thống câu hỏi, câu hỏi phải có tính chất gợi mở để các đối tượng HS đều có thể trả lời được, động viên kịp thời với những HS trung bình, yếu.
 - GV luôn yêu cầu và đòi hỏi HS phải tích cực trong các tiết học. 
 *Tóm lại: Trong 1 giờ dạy toán, GV biết cách tổ chức các HĐ phát huy tính tích cực của HS (theo từng đối tượng) thì tiết dạy sẽ sinh động, HS nắm chắc bài, vận dụng vào các bài tập khác một cách dễ dàng hơn.
C- Kết luận.
 I- Kết quả:
- Sau khi áp dụng đề tài: Hướng dẫn HS “Giải toán có lời văn” vào thực tế dạy học sinh, tôi thấy HS có những tiến bộ rõ rệt qua từng bài làm của HS, cụ thể như sau:
+ HS hào hứng sôi nổi học tập.
+ Chủ động tiếp thu kiến thức, tự tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài.
+ HS nắm được các bước cần thiết khi giải toán có lời văn, biết tóm tắt và trình bày bài giải rõ ràng, chính xác.
+ Đối với những bài toán hợp, HS đã biết phân tích bài toán.
Kết quả sau khi thực hiện qua đợt khảo sát cuối học kỳ I:
TSHS
 Xếp loại
93
 Giỏi
 Khá
 TBình
Yếu
32
34
23
6
Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ HS đạt trung bình và yếu cao. Do HS chưa nắm chắc 5 bước cần thiết khi giải toán. Khi áp dụng cách giảng dạy theo chuyên đề đã nghiên cứu ở trên, chúng tôi đã tiến hành khảo sát lần 2 vào giữa học kỳ II, cho thấy: 
TSHS 
 Xếp loại
93
 Giỏi
 khá
 TBình
 yếu
45
30
15
3
Kết quả khảo sát lần 2 tuy chưa cao, nhưng cho thấy sự chuyển biến của HS tương đối là tốt. Khi chấm bài tôi thấy bài giải của các em đặt lời giải đúng với phép tính và làm đúng các bài tập.
II- Bài học kinh nghiệm:
Qua việc thực hiện đề tài “Giải toán có lời văn” chúng tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
1- Tổ chức các HĐ đa dạng phong phú:
Trong tiết dạy, GV tổ chức các HĐ đa dạng và phong phú để dẫn dắt, đưa HS vào những tình huống có vấn đề một cách nhẹ nhàng, để HS tự tìm tòi, khám phá và lĩnh hội tri thức một cách chủ động. 
2- Tổ chức các HĐ phát triển khả năng tư duy tự học của HS:
Tự học là thói quen và kỹ năng quan trọng đối với HS, nếu HS không có kỹ năng tự học thì khả năng sáng tạo rất hạn chế, phần lớn lượng kiến thức của các em đều phải tự học ngay trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt trong học toán, các em cần phải độc lập suy nghĩ, tìm cách để giải quyết bài toán, tìm lời giải cho đúng với phép tính.
3- Tăng cường khả năng thực hành giải toán có lời văn cho HS, vì có nhiều giờ thực hành sẽ giúp HS biết cách sử dụng đúng các bước giải toán.
4- Nâng cao khả năng tư duy, phân tích tổng hợp cho HS, xác định rõ mục đích và mục tiêu của việc thực hành.
5- Xây dựng hệ thống bài tập, nhiều dạng toán cho HS luyện giải.
6- Nâng cao khả năng từ ngữ Tiếng Việt cho HS áp dụng viết lời giải cho bài toán.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi, khi tiến hành “Nâng cao chất lượng dạy giải toán có lời văn”. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của Ban giám hiệu nhà trường và các đồng nghiệp .
 .., ngày 15 tháng 4 năm 2010
 Người viết:
 Dương Thị Dung
MỤC LỤC
Mở đầu
 I- Lý do chọn đề tài.
 II- Cơ sở lý luận.
 III- Cơ sở thực tiễn
Nội dung đề tài
I – ND chương trình, yêu cầu KT,KN giải toán có lời văn ở lớp 3 .
II- Quy trình dạy tiết toán bậc tiểu học.
III- Các phương pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 3.
IV- Biện pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 3.
Kết luận
I- Kết quả.
II- Bài học kinh nghiệm.
TÀI LIậ́U THAM KHẢO
SGK Toán 3
Phương pháp dạy học các mụn học ở lớp 3.
SGV Toán 3.
Sách thiờ́t kờ́ Toán 3.

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN TOAN 3.doc