Sáng kiến kinh nghiệm Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy toán lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy toán lớp 2

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

 Trong quá trình giáo dục nội dung và phương pháp dạy học là những yếu tố quyết định đến kết quả giáo dục. Vì vậy, nắm vững nội dung phương pháp dạy học của từng môn học trong tất cả các khối lớp, cần thiết đối với người giáo viên. Ở tiểu học môn Toán chiếm vai trò vị trí hết sức quan trọng. Nó vừa cung cấp hệ thống kiến thức cơ bản, cần thiết, vừa là công cụ giúp học sinh học các môn học khác và tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh. Không những vậy, nó còn khả năng giáo dục nhiều mặt: về phát triển tư duy lô gích, bồi dưỡng và phát triển thao tác trí tuệ cần thiết. Bên cạnh đó, nó còn có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học, chính xác, có nhiều tác dụng trong việc phát triển trí thông minh, tư duy độc lập và rèn luyện trong mọi hoạt động của con người. Chính vì vậy, việc nắm vững nội dung và phương pháp dạy học ở từng lớp là yêu cầu không thể thiếu đối với giáo viên Tiểu học.

 

doc 17 trang Người đăng thuydung93 Lượt xem 1087Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy toán lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
 Trong quá trình giáo dục nội dung và phương pháp dạy học là những yếu tố quyết định đến kết quả giáo dục. Vì vậy, nắm vững nội dung phương pháp dạy học của từng môn học trong tất cả các khối lớp, cần thiết đối với người giáo viên. ở tiểu học môn Toán chiếm vai trò vị trí hết sức quan trọng. Nó vừa cung cấp hệ thống kiến thức cơ bản, cần thiết, vừa là công cụ giúp học sinh học các môn học khác và tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh. Không những vậy, nó còn khả năng giáo dục nhiều mặt: về phát triển tư duy lô gích, bồi dưỡng và phát triển thao tác trí tuệ cần thiết. Bên cạnh đó, nó còn có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học, chính xác, có nhiều tác dụng trong việc phát triển trí thông minh, tư duy độc lập và rèn luyện trong mọi hoạt động của con người. Chính vì vậy, việc nắm vững nội dung và phương pháp dạy học ở từng lớp là yêu cầu không thể thiếu đối với giáo viên Tiểu học.
	Căn cứ vào đánh giá về chương trình tiểu học hiện hành. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tìm cách đổi mới, điều chỉnh, nhằm hạn chế tối đa những khuyết điểm còn tồn tại. Những khuyết điểm này có thể được khắc phục khi thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa môn Toán ở tất cả các lớp Tiểu học. Đổi mới chương trình gắn bó chặt chẽ với đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Năm học 2003-2004 đã đưa chương trình thay SGK lớp 2 trên toàn quốc. Năm 2004-2005 là năm thứ hai thực hiện chương trình thay sách SGK lớp 2. Qua tìm hiểu và nghiên cứu tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy toán lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu:
	Nghiên cứu đề tài: “Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy học toán 2” để nắm bắt được những điểm mới, tiếp cận với phương pháp mới dạy học chương trình Tiểu học theo đúng kế hoạch của Bộ Giáo dục và đào tạo.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy học Toán 2.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu Toán lớp 2 của hai chương trình: Chương trình cải cách giáo dục 165 tuần và chương trình thay SGK mới, trong đó tập trung cơ bản vào việc nghiên cứu nội dung cơ bản và phương pháp dạy Toán 2 chương trình tiểu học năm học 2008.
Nghiên cứu SGV, sách bài soạn, vở bài tập. Để thiết kế một số tiết dạy.
5. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp điều tra.
Phần II: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1 Cơ sở lý luận:
- Tiếp tục đảy mạnh toàn diện ở Tiểu học (dạy đủ 9 môn học), đảm bảo sự cân đối và hài hoà giữa các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà trường. Sự cân đối và hài hoà giữa các mặt giáo dục thể hiện ở 3 sự phân phối nội dung, sự xác định mức độ tương đối nội dung và thời lượng tối thiểu để dạy học về nội dung cơ bản của các môn học.
- Đảm bảo sự thống nhất về trình độ chuẩn của chương trình trong điều kiện đất nước có nhiều vùng, miền, nhiều dân tộc phát triển không đều.
- Đổi mới chương trình tiểu học, giữ vững sự ổn định để nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học.
1.2. Mục tiêu dạy môn Toán lớp 2
Dạy học toán lớp 2 nhằm giứp học sinh :
- Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản thiết thực về phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 1000. Phép nhân, phép chia và bảng nhân bảng chia cho 2, 3, 4, 5, tên gọi và mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ, phép cộng và phép nhân..... các số đến 1000, phép csộng và phép trừ các số trong phạm vi 1000(có nhớ không quá 1 lần). Các phần bằng nhau của đơn vị dạng 1/2,1/3, 1/4, 1/5, các đơn vị đo độ dài đề xi mét (dm), mét (m), giờ và phút, ngày và tháng, ki lô gam (kg), lít (l). Nhận biết một số hình học (hình tứ giác, hình chữ nhật, đường thẳng, đường gấp khúc, độ dài đường gấp khúc...). Các dạng bài toán có lời văn chủ yếu giải bằng một phép tính cộng, trừ, nhân chia. Bước đầu làm quen với một số bài toán hợp giải bằng hai phép tính.
- Hình thành và rèn luyện kỹ năng thực hành: Cộng và trừ có nhớ trong phạm vi 1000, nhân và chia không nhớ trong phạm vi các bảng tính và ngoài bảng tính, giải các phương trình đơn giản dưới dạng bài “tìm x”, tính giá trị biểu thức số (dạng đơn giản), đo và ước lượng độ dài, khối lượng, dung tích. Nhận biết hình và vẽ hình tứ giác, hình chữ nhật, hình vuông, trung điểm của đoạn thẳng, đường gấp khúc, tính độ dài đường gấp khúc, giải các dạng bài toán đơn về cộng trừ nhân chia. Bước đầu diễn đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành: Tập dượt so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, phát triển trí tưởng tượng trong quá trình áp dụng các kiến thức và kỹ năng Toán 2 trong học tập và trong đời sống.
- Tập phát hiện tìm tòi và chiếm lĩnh kiến thức mới, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và trong thực hành Toán .
1.3. Chương trình Toán 2:
- Chương trình Toán 2 là sự tiếp tục của chương trình Toán 1. Chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học Toán 2 ở nước ta: Thực hiện những đổi mới về cấu trúc nội dung để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới, quan tâm đúng mức đến đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh hoạt động học tập tích cực.
Thời lượng tối thiểu để dạy học Toán 2 là 5 tiết học mỗi tuần lễ, mỗi tiết học kéo dài 35 phút. Như vậy thời lượng dạy học Toán 2 gồm: 5 x 35 = 175 (tiết)
1.4. Đặc điểm nhận thức môn Toán của học sinh lớp 2:
Nhìn chung đặc điểm nhận thức về môn Toán của học sinh lớp 2 là tư duy cụ thể. Các thao tác tư duy này gọi tắt là cụ thể vì trong một chừng mực nhất định chúng còn dựa trực tiếp trên các đồ vật, hiện tượng thực tại mà chưa tác động được trên lời nói và các giả thiết bằng lời. Trong một chừng mực nào đó, hành động trên các đồ vật, sự kiện bên ngoài còn là chỗ dựa hay điểm xuất phát cho các hành động trong óc.
Do khả năng phân tích kém, các em thường trí giác trên tổng thể. Sự chú ý không chủ định còn chiếm ưu thế. Do thiếu khả năng tổng hợp sự chú ý của học sinh tiểu học còn phân tán, thiếu khả năng phân tích nên dễ bị lôi cuốn vào cái trực quan, gợi cảm. Trường hợp chú ý hẹp do không biết tổ chức sự chú ý.
Sự chú ý của các em thường hướng ra bên ngoài, hướng hành động chứ chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy.
Trí nhớ trực quan hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ lô gích, hiện tượng hình ảnh cụ thể dễ nhớ hơn là các câu chữ trừu tượng khô khan. Trí tưởng tượng tuy có phát triển nhưng còn tản mạn, ít có tổ chức còn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh nghiệm sống và các mẫu mực đã biết.
Trong chương trình thay SGK lớp 2 chương trình tiểu học năm 2000, lớp 2 thuộc giai đoạn học tập cơ bản, giai đoạn này học sinh được chuẩn bị về phương pháp học Toán dựa vào các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tác.
1.5 Cơ sở thực tiễn:
Qua tìm hiểu thực tiễn giảng dạy và tìm hiểu qua các đồng nghiệp trực tiếp dạy lớp 2 năm học 2003-2004 chương trình thay SGK mới các đồng chí có nhận xét:
- Nội dung chương trình cơ bản phù hợp, vừa sức với học sinh, nội dung gần gũi, thiết thực với cuộc sống hàng ngày giúp các em nhanh chóng tiếp thu.
Ví dụ: Khi học về ngày, tháng học sinh được thực hành đo thời gian (t), học bài ki lô gam (kg) học sinh được tập, cân, đong, đếm...
- SGK trình bày khoa học lô gích giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hệ thống, bài học mới để nhớ lấy bài cũ.
Ví dụ: Khi học xong bài “9 cộng với một số” 9+5, học sinh có thể vận dụng để học tiếp các bài như sau: 29+5, 49+25...
- Hệ thống bài tập đa dạng, phong phú phù hợp với học sinh, hầu như tất cả học sinh đều hoàn thành ở lớp. Bài tập sắp xếp từ dễ đến khó, bài tập vận dụng ngay kiến thức mới học.
- Về phương pháp: Nội dung chương trình tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học: Giáo viên tổ chức hướng dẫn cho tất cả học sinh để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức .
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh thao tác trên đồ dùng -> học sinh tự phát hiện -> tự rút ra kiến thức mới, tạo cho học sinh ý thức tự học.
Kết quả kiểm tra định kỳ trong năm học 2007-2008 của khối 2 trường tiểu học Yên Trung như sau:
Kết quả
KTĐ(lần 1)
KTĐK(lần2)
KTĐK(lần3)
KTĐK(lần4)
Giỏi
18 = 21,1%
24 = 28,6
28 = 33,3
32 = 38,1
Khá
22 =26,2%
26 =30,9
30 =35,8
33 = 39,3
TB
39 =46,5%
31 = 36,9
25 = 29,8
19 = 22,6
Yếu
5 = 5,9%
3 = 3,6
1 = 1,1
0
Chương 2 : 
Những điểm mới về nội dung và phương pháp
dạy học môn toán lớp 2 - chương trình thay SGK mới
1. Nội dung môn Toán lớp 2:
a. Số học và yếu tố đại số:
Phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100
- Giới thiệu tên gọi thành phần và kết quả của phép cộng (số hạng, tổng) và phép trừ (số bị trừ, số trừ, hiệu).
- Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 20
- Phép cộng và phép trừ không nhớ hoặc có nhớ một lần trong phạm vi 100. Tính nhẩm và tính viết.
- Tính giá trị biểu thức số có điền hai dấu phép tính cộng, trừ.
- Giải bài tập dạng: Tìm x biết: a + x = b; x + a = b; x - a = b; a - x = b (với a,b là các số bé đã học) Bằng việc sử dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết quả của phép tính.
* Các số đến 1000, phép cộng và phép trừ trong phạm vi 1000
- Đọc, viết, so sánh các số có 3 chữ số. Giới thiệu hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm.
- Phép cộng các số có đến 3 chữ số, tổng không quá 1000, không nhớ và có nhớ một lần, tính nhẩm và tính viết.
- Phép trừ các số có đến 3 chữ số, không nhớ hoặc có nhớ một lần.
- Tính giá trị biểu thức có đến hai phép tính cộng trừ có hoặc không có dấu ngoặc.
* Phép nhân và phép chia:
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép nhân: Lập phép nhân từ tổng các số hạng bằng nhau. Giới thiệu thừa số và tích.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép chia: Lập phép chia từ phép nhân có một thừa số chưa biết khi biết tích và thừa số kia. Giới thiệu số bị chia số chia và thương.
- Lập bảng nhân với 2,3,4,5 có tích không quá 50
- Lập bảng chia cho 2,3,4,5 có số bị chia không quá 50 
- Nhân với 1 chia cho 1
- Nhân với 0. Số bị chia là 0. Không thể chia cho 0 
- Số chẵn, số lẻ.
- Giới thiệu bước đầu về tính chất giao hoán của phép nhân, vai trò của số 1 trong phép nhân.
- Thực hành tính: nhân chia nhẩm trong phạm vi các bảng tính. Nhân số có 2 chữ số với số có 1 chữ ... nhiều điều kiện ôn tập, củng cố kiến thức đã học, giúp học sinh huy động được chúng để phát hiện, chiếm lĩnh, vận dụng kiến thức mới tìm ra những nội dung còn tiềm ẩn trong từng bài học.
* Phương pháp dạy học các nội dung thực hành luyện tập:
Như chúng ta đã biết, nội dung thực hành luyện tập không kém phần quan trọng trong việc giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới, hình thành kỹ năng ... chỉ có qua thực hành luyện tập học sinh mới có thể chiếm lĩnh kiến thức mới một cách vững vàng, có khả năng vận dụng linh hoạt sáng tạo kiến thức đó. Chính vì vậy thời lượng thực hành luyện tập chiếm khoảng 80% tổng số thời lượng dạy học Toán.
Nhiệm vụ chủ yếu nhất của dạy học thực hành luyện tập trong tiết dạy học bài mới và trong tiết luyện tập, luyện tập chung, ôn tập ...) là củng cố các kiến thức cơ bản của chương trình và rèn luyện các năng lực thực hành giúp học sinh nhận ra rằng: học không chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dụng.
Dạy thực hành luyện tập cần:
- Giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành luyện tập theo khả năng của mình bằng cách:
+ Tổ chức cho học sinh làm các bài tập theo thứ tự đã sắp xếp trong vở bài tập (hoặc do giáo viên sắp xếp lại), không tự ý lướt qua hoặc bỏ qua bài tập nào, kể cả bài tập học sinh cho là dễ.
+ Không nên bắt học sinh đợi nhau trong quá trình làm bài sau mỗi bài, học sinh nên tự kiểm tra (hoặc nhờ giáo viên kiểm tra), nếu đã làm xong thì nên chuyển sang bài tập tiếp theo.
+ Giáo viên cần có sự giúp đỡ riêng với từng đối tượng học sinh, nếu là học sinh yếu kém thì biện pháp giúp đỡ là như thế nào? ngược lại với học sinh khá, giỏi thì biện pháp ra sao?
Ví dụ: Trước tiết dạy luyện tập giáo viên dự đoán tình huống là học sinh khá giỏi sẽ làm nhanh và đã chuẩn bị một số bài tập đến khi nào những em đó làm xong giáo viên có thể đưa ra các bài tập đó để cho các em làm. Như vậy không khí lớp học nghiêm túc mà giáo viên lại có thời gian giúp đỡ những em yếu kém.
- Tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
+ Khi cần thiết có thể cho học sinh trao đổi nhóm nhỏ hoặc trong toàn lớp về cách giải hoặc giải một bài tập. Nên khuyến khích học sinh bình luận trao đổi về cách giải của bản thân, tự rút ra kinh nghiệm trong quá trình trao đổi ý kiến nhóm ở lớp.
Ví dụ: Có thể cho học sinh trao đổi rõ để kiểm tra kết quả, cách giải của bạn.
+ Sự hỗ trợ giữa học sinh trong nhóm, trong lớp góp phần giúp học sinh tự tin hơn vào khả năng của bản thân, tự rút kinh nghiệm về cách học của bản thân, tự rút kinh nghiệm về cách học của mình.
- Khuyến khích học sinh tự đánh giá kết quả thực hành luyện tập.
+ Tập cho học sinh có thói quen làm xong bài tập nào cũng phải tự kiểm tra lại xem có làm nhầm, làm sai .... không.
+ Nên hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài làm của bạn, của mình bằng điểm rồi báo điểm với giáo viên.
+ Khuyến khích học sinh tự nói ra hạn chế của mình, của bạn sau khi đánh giá. 
- Giúp học sinh nhận ra kiến thức cơ bản của bài học trong sự đa dạng phong phú của các bài tập thực hành luyện tập.
Các bài tập thực hành thường có nhiều dạng và mức độ khó khác nhau, nếu học sinh tự nhận ra được kiến thức cơ bản đang được học trong các mối quan hệ của bài thực hành, luyện tập học sinh sẽ biết cách vận dụng các kiến thức cơ bản đã học để làm bài, giáo viên không nên làm thay hoặc chỉ dẫn quá chi tiết cho học sinh mà nên giúp học sinh biết cách phân tích bài toán để tự học sinh phải nhận ra được các kiến thức đã học. Đây còn là dịp để giáo viên cũng như học sinh không bị phân tán suy nghĩ và hoạt động bởi các mối quan hệ không bản chất, do đó tập trung vào các kiến thức cơ bản, trọng tâm của chương trình.
- Tập cho học sinh thói quen không thoả mãn với bài làm của mình, với các cách giải đã có sẵn.
+ Sau mỗi tiết học, tiết luyện tập giáo viên nên tạo cho học sinh niềm vui và niềm tin vì đã hoàn thành công việc được giao và đã đạt được những tiến bộ nhất định trong học tập (bằng cách khuyến khích, nêu gương...).
+ Tập cho học sinh có thói quen và có phương pháp tìm được cách giải quyết tốt nhất cho bài làm của mình (bằng cách giúp học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá và luôn tìm cách hoàn thiện việc đã làm). Giáo viên không nên “áp đặt” học sinh theo phương pháp có sẵn. Hãy động viên các em tìm và lựa chọn phương án tốt nhất.
4. Những điểm mới về phương pháp dạy học Toán 2.
 Giáo viên tổ chức hướng dẫn tất cả học sinh hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ của bài học, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. Phương pháp này đã huy động được mọi khả năng của tất cả học sinh để tự học sinh tìm tòi, khám phá ra những nội dung mới của bài học. Giúp học sinh có các điều kiện và phương tiện hoạt động để học sinh tự phát hiện ra các tình huống có vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm, trong lớp lập kế hoạch và biết lựa chọn kế hoạch hợp lý nhất để giải quyết vấn đề.
Phát triển năng lực, sở trường của mỗi học sinh, tạo cho học sinh có niềm tin và niềm vui trong học tập.
Dạy học như trên không những góp phần giúp giáo viên luôn đổi mới tư duy, đổi mới phương pháp mà còn giúp cho sự hình thành các kiến thức kỹ năng và thái độ cần thiết cho học sinh được nhanh chóng, dễ dàng hơn, tạo cho các em phương pháp học tập mới.
Phương pháp dạy học các nội dung thực hành luyện tập ở chương trình mới giúp giáo viên nói ít, giảng giải ít, còn học sinh làm việc nhiều. Lao động của giáo viên dường như nhẹ nhàng hơn. Học sinh tích cực, tự giác hơn. Khi điều khiển hoạt động của lớp học, giáo viên phải xử lý nhiều tình huống sư phạm.
Giáo viên được chủ động lựa chọn nội dung tri thức phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của lớp học để phát triển năng lực của học sinh, không bị lệ thuộc hoàn toàn vào SGK và tài liệu như trước đây.
Trong việc đánh giá kết qủa học tập của học sinh, ý kiến của giáo viên là quan trọng, song giáo viên không phải là người duy nhất đánh giá kết quả học tập của học sinh mà còn tạo điều kiện để các em tự đánh giá mình, đánh giá lẫn nhau.
Có thể tóm tắt phương pháp dạy học như sau:
Dạy
Học
- Hướng dẫn gợi mở 
- Tự hoạt động 
- Không làm thay 
- Tự tìm giải pháp tối ưu 
- Tôn trọng mọi sáng kiến 
- Giao lưu hợp tác 
- Phù hợp cá nhân
- Cá thể hoá 
- Phát triển tự học 
- Phát triển tư duy ngôn ngữ
Như vậy PPDH ở chương trình thay SGK lớp 2 mới vừa nhấn mạnh vai trò chủ thể nhận thức của học sinh, đồng thời đề cao hơn vai trò của giáo viên.
Người gợi mở, hướng dẫn, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động học tập của học sinh. Nội dung cùng với PPDH mới đã và đang tạo điều kiện môi trường tốt để tạo ra những con người lao động năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sàng thích ứng với những đổi mới đang diễn ra hàng ngày.
5. Khâu soạn bài của giáo viên.
- Soạn bài thực chất là lập kế hoạch để tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động học tập tích cực nhằm đạt mục tiêu dạy học một bài học, bài luyện tập cụ thể của Toán 2 nói riêng và các phân môn nói chung. Vì vậy, bài soạn cần đảm bảo các yêu cầu: rõ ràng, chính xác, đúng thứ tự ... Các hoạt động dạy học chủ yếu.
- Trước khi soạn bài cần tham khảo các tài liệu như sách học sinh, sách hướng dẫn ... Để xem kiến thức có liên quan đến phần kiến thức nào để còn giúp học sinh liên hệ rộng.
- Mỗi bài soạn cần bao gồm các mục sau:
+ Mục tiêu: Nêu những gì giáo viên cần đạt được trong tiết dạy học Toán 2.
+ Đồ dùng dạy học: Nêu các đồ dùng dạy học của giáo viên và đồ dùng học cần thiết nhất của học sinh.
+ Các hoạt động dạy học chủ yếu: Nêu kế hoạch và quy trình tổ chức hướng dẫn từng hoạt động học tập của học sinh theo mục tiêu đã xác định. Cần xác định rõ từng hoạt động, cách tiến hành hoạt động đó, dự kiến trình tự các hoạt động ... Thông thường có các hoạt động chủ yếu như: Kiểm tra kết quả học tập của học sinh, dạy học bài mới (nếu có), thực hành, luyện tập, củng cố. Khi dạy học, giáo viên có thể linh hoạt triển khai các hoạt động này theo mức độ, quy trình phù hợp với điều kiện cụ thể của lớp học. khi củng cố bài nên tổ chức các trò chơi học tập.
Kết luận
Sau một thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài “Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy học Toán 2” chương trình thay SGK bản thân tôi đã tìm hiểu được rất nhiều điều bổ ích. Không những nghiên cứu về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, tìm hiểu về đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 2, mà còn tìm hiểu về nội dung, phương pháp của chương trình Toán 2. Không những thế mà bản thân còn trực tiếp dạy lớp 2 tại trường Tiểu học Yên Trung. Từ đó tìm ra những ưu điểm, nhược điểm cả về nội dung và phương pháp của chương trình mới (chủ yếu ưu điểm). Bản thân nhận thấy ở chương trình CCGD học sinh cũng đã được học, tuy nhiên với sự đổi mới trong thiết kế, trong phương pháp lên lớp, kết quả đạt được rất cao, chứng tỏ ưu điểm của phương pháp mới.
- Về một số nội dung mới được đưa vào. Học sinh không hề bỡ ngỡ, lúng túng mà nhanh chóng lĩnh hội. Chứng tỏ nội dung, phương pháp dạy học đã phù hợp (không quá tải). Cùng với sự đổi mới trong phương pháp lên lớp và sự linh hoạt sáng tạo trong khi thực hiện thiết kế của giáo viên. Điều này càng chứng tỏ ưu điểm của nội dung chương trình và sự đổi mới của phương pháp dạy học.
Qua nghiên cứu tôi đã rút ra được những hiểu biết và kinh nghiệm qúy báu cho bản thân trong việc giảng dạy.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy để có thể tiếp cận và dạy tốt chương trình mới thì việc đầu tiên người giáo viên tiểu học cần làm là: nghiên cứu kỹ nội dung chương trình. Hiểu được nội dung, dụng ý của sách, luôn có ý thức sáng tạo đổi mới trong phương pháp sao cho phù hợp với nội dung và tích cực hoá hoạt động của học sinh. Góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả dạy học.
Với khả năng và thời gian có hạn. Trong qúa trình nghiên cứu bản thân còn gặp nhiều khó khăn nên tôi chỉ có thể trình bày một số vấn đề như trên với mong muốn góp phần vào việc tìm hiểu những điều mới về nội dung và phương pháp dạy học Toán 2. Do năng lực bản thân còn hạn chế, bỡ ngỡ nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót (kể cả trình bày). Rất mong được sự đóng góp, góp ý kiến của các thầy, cô cùng các bạn đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !

Tài liệu đính kèm:

  • docGIAO AN 2(1).doc