Giáo dục bậc tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. đặc biệt là môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu vá các môn học khác.
Tiếng việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, học thuộc lòng, từ ngữ, ngữ pháp, kể chuyện, tập làm văn chính tả, tập viết. Mỗi môn đều có một chức năng khi dạy ngữ văn ở nhà trường đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn. Tập đọc là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng việt cho học sinh (về phát âm, từ ngữ, câu văn.) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mỹ. Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc học thuộc lòng học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể cho tre em. Cũng thông qua các bài văn học sinh học được hiểu thêm về các vùng miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý báu của dân tộc.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KRÔNG NÔ TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN QUỐC TOẢN ************&************ Sáng kiến kinh nghiệm PHƯƠNG PHÁPGIÚP HỌC SINH PHÁT ÂM CHUẨN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 3C Giáo viên: Lương Văn Hạnh Năm học: 2011 – 2012 Phần thứ nhất Đặt vấn đề Giáo dục bậc tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. đặc biệt là môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu vá các môn học khác. Tiếng việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, học thuộc lòng, từ ngữ, ngữ pháp, kể chuyện, tập làm văn chính tả, tập viết... Mỗi môn đều có một chức năng khi dạy ngữ văn ở nhà trường đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn. Tập đọc là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng việt cho học sinh (về phát âm, từ ngữ, câu văn...) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mỹ. Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc học thuộc lòng học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể cho tre em. Cũng thông qua các bài văn học sinh học được hiểu thêm về các vùng miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý báu của dân tộc. Môn tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương. Môn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy logic. Giờ tập đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm đại ý để phát triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ. Môn tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng việt. Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng sinh động, được luyện về nghĩa âm, chính tả, tập làm văn. Ở bậc tiểu học nói chung và lớp 3C, Trường Tiểu học Trần Quốc Toản nói riêng, môn tập đọc có các yêu cầu chính như sau: - Rèn kĩ năng tập đọc thành tiếng. - Giúp học sinh “đọc - hiểu và cảm thụ nội dung, ý nghĩa” của bài văn, bài thơ. - Giúp học sinh phát âm chuẩn Tiếng Việt ( theo tinh thần “ giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt” Học môn tập đọc: Việc đọc và phát âm chuẩn Tiếng Việt, cảm thụ được nội dung ý nghĩa của câu chuyện, bài văn, bài thơlà những yêu cầu quan trọng nhất, vì mỗi yêu cầu đều có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Việc phát âm chuẩn Tiếng Việt giúp các em cảm thụ tốt nội dung ý nghĩa và đọc diễn cảm tốt tốt hơn, tạo cho người nghe chú ý, hứng thú hơn. Ngược lại việc đọc sai âm, sai vần, không đúng thanh điệu sẽ khiến cho người nghe khó chịu và không hiểu, thẩm chí còn hiểu sang nghĩa khác và mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt. Đọc đúng, đọc diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu sắc hơn. Thật vậy học sinh có đọc thông thạo được và trên cơ sở đã hiểu nội dung câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm xúc có nghĩa là đã hiểu tường tận về nội dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài. Điều đó khẳng định rằng trong phân môn tập đọc ở lớp 3 nói chung, ở 3C nói riêng, việc “ luyện kĩ năng nghe và phát âm chuẩn, đọc diễn cảm” là rất cần thiết. Trong giờ học, học sinh biết đọc diễn cảm và phát âm đúng, chuẩn tiếng Việt, thì tiết học đó mới có hiệu quả cao và thể hiện được tầm quan trọng của bộ môn Tiếng Việt nói chung, phân môn tập đọc nói riêng. Qua các lớp học dưới, học sinh lớp 3 đã có điều kiện và kĩ năng để đọc đúng chuẩn âm và đọc diễn cảm. Đọc đúng âm, đọc diễn cảm chính là phần quan trọng trong môn học. Nếu như không được chỉnh sửa và rèn luyện ngay từ bây giờ thì sẽ khiến các em đọc sai, nói sai Tiếng Việt, vì thế cần được tiến hành và uốn nắn cho học sinh ngay từ nhỏ. Trong những tầm quan trọng đặc biệt của bộ môn tập đọc nói chung và việc “rèn luyện kĩ năng phát âm chuẩn tiếng Việt”, đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3C nói riêng, trong giờ tập đọc, để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy. Thời gian qua tôi nhận thấy chất lượng đọc đúng chuẩn âm tiếng Việt và đọc diễn cảm ở lớp 3C còn yếu. Những lỗi sai các em thường mắc phải khi “đọc và viết” là các chữ gần âm và do lỗi phát âm địa phương của các em. Ví dụ: * Các âm/ vần, thường mắc khi đọc và viết: “ a /ă ”; “ ơ / â ”; “ s / x ”; “ i / y ”; “ ch / tr ”; “nh / ng/ ngh”; “ anh/ ang”; “ an/ăn/ang” ;” ong/ ông”; “ơng/âng/ơng”; “ân/ ơn”; ắc/ ác” ; “ at/ ac” v v * Các thanh thường mắc lỗi, như: “thanh nặng/ thanhhỏi/ thanh ngã ” ; “ thanh ngã/ thanh sắc”; “thanh huyền/thanh nặng” vv Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đồi hỏi về tri thức con người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ “nói chuẩn và viết đúng chính tả” của môn Tiếng Việt là vô cùng cần thiết cho mỗi người. Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được, mà phải trải qua một quá trình rèn luyện và kiên trì uốn nắn trong nhà trường và gia đình ngay từ đầu. Để góp phần nâng cao chất lượng cho học sinh nói - viết đúng chuẩn âm Tiếng Việt và đọc diễn cảm, từ đó cảm nhận nội dung ý nghĩa của câu chuyện, bài văn, bài thơ. Theo tôi được biết thì đề tài này từ ngày thành lập trường Trần Quốc Toản đến nay chưa có giáo viên nào nghiên cứu để áp dụng tại lớp hay trong khối. Vì thế tôi mạnh dạn chọn đề tài này với hy vọng sẽ đóng góp một vài kinh nghiệm nhỏ của mình về vấn đề: “giúp học sinh lớp 3 phát âm chuẩn Tiếng Việt và đọc diễn cảm”, cùng với việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt . Phần thứ hai Giải quyết vấn đề 1/ Điều tra thực trạng Qua hai năm giảng dạy ở lớp 3 tại điểm trường thôn Đăk Na, cũng như quá trình quan sát, tiếp cận, sống và cư trú tại điểm trường lâu năm với người dân địa phương. Đồng thời căn cứ vào quá trình dạy và học của thầy trò trong thời gian trước đây, tôi có những nhận xét sau: a/ Về người dạy : Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới: “Thầy thiết kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi nghiên cứu để giảng dạy phân môn tập đọc chỉnh sửa lỗi các chữ gần âm, nhưng chất lượng đem lại chưa cao. Bởi vì giáo viên chỉ coi trọng vấn đề đọc thành tiếng, đọc to, rõ hoặc có hướng dẫn sửa tại lớp và tổ chức đọc diễn cảm, nhưng việc liệt kê các lỗi sai cụ thể, sửa chữa hằng ngày để rèn cho học sinh phát âm chuẩn, đọc diễn cảm thì còn ít. b/ Về người học: Học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, nhưng còn chậm và phát âm còn sai nhiều lỗi ở các dấu thanh, các phụ âm đầu và các âm vần khó dễ lẫn, do lỗi phát âm địa phương. Ví dụ như: * Các âm/ vần, thường mắc khi đọc và viết: “ a /ă ”; “ ơ / â ”; “ s / x ”; “ i / y ”; “ ch / tr ”; “nh / ng/ ngh”; “ anh/ ang”; “ an/ăn/ang” ;” ong/ ông”; “ơng/âng”; “ân/ ơn”; ắc/ ác” ; “ at/ ac” vv * Các thanh thường mắc lỗi, như: “thanh nặng/ thanhhỏi/ thanh ngã ” ; “ thanh ngã/ thanh sắc”; “thanh huyền/thanh nặng” vv Vì thế chất lượng cảm nhận nội dung văn bản trong bài học, câu chuyện, bài văn, bài thơ của học sinh còn hạn chế. Các em không nêu được ý chính của bài, chưa biết đọc diễn cảm toàn bài văn. Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm còn ngừng nghỉ như nhau, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm. Chưa thể hiện được lời của nhân vật.. Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học 2011 – 2012, tôi đều thấy số lượng học sinh đã biết đọc đúng chuẩn âm và đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít, cần được quan tâm và có phương pháp cải thiện hiệu quả. Cụ thể điều tra chất lượng đọc của học sinh lớp 3C đầu năm học 2011-2012 này, tôi có số liệu cụ thể như sau: Tổng số học sinh Đọc nhỏ, ấp úng, lí nhí, Đọc to, lưu loát, sai âm, vần cuối dễ lẫn Đọc to, đúng chuẩn âm và diễn cảm 15 6 = 40 % 6 = 40 % 3 = 20 % 2/ Phương pháp nghiên cứu Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình câu hỏi: phải làm gì? làm như thế nào? để khắc phục tình trạng đó và nâng cao chất lượng đọc cho học sinh. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng phối hớp nhiều phương pháp nghiên cứu đó là: -Phương pháp điều tra. -Phương pháp đối chứng . -Phương pháp tổng quát. Phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà còn phải điều tra từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước, với kết quả năm trước và cuối cùng đi tổng hợp số liệu và rút ra bài học kinh nghiệm. 3/ Những công việc thực tế đã làm: Từ yêu cầu thực tiễn của môn tập đọc nói chung và rèn luyện kỹ năng nói – viết đúng chuẩn âm cho học sinh lớp 3, tôi đã tự đặt cho mình phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm để đáp ứng với yêu cầu đề ra. Trong giảng dạy môn tập đọc, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức, đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng đọc đúng âm, đúng thanh điệu đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh đọc tốt, trước hết trong mọi giờ tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách phát âm chuẩn, đọc đúng dấu thanh, có ý thức, đọc trôi chảy, sau đó mới yêu cầu học sinh đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy học những yêu cầu đó gọi là “chất lượng đọc” được thể hiện đồng thời và chi phối lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ nâng cao tốc độ đọc và cho phép đọc có ý thức hơn. Nếu không hiểu cái đang đọc thì không thể đọc lưu loát và diễn cảm được. Phát âm chuẩn thể hiện ở các dấu thanh, ngữ điệu, biết nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy, hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra cần biết đọc đúng giọng trong các câu kể, câu hỏi biết phân biệt giọng người dẫn chuyện với từng tuyến nhân vật có tính cách khác nhau. Đọc chuẩn là biểu hiện cao của đọc có ý thức và chỉ thực hiện đựơc trên cơ sở đọc đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ... ới học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý đến tiết học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp và uốn nắn. - Đối với học sinh đọc yếu, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, cụm từ, với câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề, ra yêu cầu rèn đọc ở nhà, kiểm tra lại những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được tiến hành thường xuyên không được ngắt quãng. Tóm lại sau mỗi giờ tập đọc tôi thường kiểm tra chất lượng đọc của học sinh thông qua đọc thành tiếng, đọc chuẩn âm (cả 3 đối tượng giỏi + khá + Trung bình) xem các em đã đọc đúng và đọc diễn cảm chưa. 5/Kết quả Qua quá trình giảng dạy, nhờ đã kiên trì bền bỉ, áp dụng những biện pháp rèn đọc đúng, như đã nêu trên. Tôi đã tiến hành khảo sát và có số liệu như sau: Lớp 3C3( năm học: 2010 – 201): Sĩ số: 16 học sinh. Kết quả thay đổi theo thời điểm Đọc nhỏ, ấp úng, lí nhí, Đọc to, lưu loát, sai âm, vần cuối dễ lẫn Đọc to, đúng chuẩn âm và diễn cảm Đầu năm 10/16 = % 6/16 = % 0 = % Cuối học kì I 8/16 = % 6/16 = % 2/16 = % Cuối học kì II 4 /16 = % 5/16 = % 6/16 = % 6/ Lời bình Qua kết quả khảo sát và số liệu ghi chép tôi rất phấn khởi thấy trong các giờ tập đọc học sinh say mê học và lớp học sôi nổi, kỹ năng đọc to đọc đúng, diễn cảm được nâng cao rõ rệt. Có nhiều em đầu năm học đọc nhỏ lí nhí, chưa trôi chảy, đến cuối kỳ II các em đã đọc to, rõ ràng, lưu loát hơn. Những em học trung bình khá trở lên đã đọc đúng chuẩn âm và đọc diễn cảm bài văn theo đúng yêu cầu đề ra. Tuy kết quả chưa được mỹ mãn như ý nhưng đó cũng là thành công bước đầu nghiên cứu, mày mò ra biện pháp rèn đọc cho học sinh của mình. 7/ Bài học kinh nghiệm Trên đây là một vài phương pháp “giúp học sinh đọc – viết, đúng chuẩn âm Tiếng Việt” cho học sinh lớp 3C, để đạt được những kết quả trên qua kinh nghiệm giảng dạy tôi tự rút ra một số kết luận sư phạm như sau: Muốn rèn cho học sinh “đọc – viết đúng chuẩn âm Tiếng Việt” và đọc diễn cảm tốt, trước hết người thầy phải có nghiệp vụ sư phạm tốt, đặc biệt đọc mẫu của thầy phải chuẩn, hay, có sức cuốn hút học sinh, vì trong khâu rèn đọc thì việc đọc mẫu của thầy giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh. Các em sẽ theo dõi lắng nghe thầy đọc và coi đó là chuẩn mực để bắt trước và so sánh, đánh giá với giọng đọc của mình. Chính vì vậy thầy cô cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ cô đọc, nói đều phải chuẩn mực. Giáo viên phải nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy học đạt kết quả cao nhất nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức điều khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi, kích thích hứng thú học tập và nâng cao ý thức tự giác của học sinh. Giáo viên cần phải tìm hiểu chắc nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn, sách soạn bài để học sinh nắm vững nội dung bài, hướng dẫn rõ cách đọc từng đoạn văn, đoạn thơ cho học sinh hiểu. Thực tế cho thấy sách giáo khoa Tiếng Việt, sách soạn bài và sách hướng dẫn phải thừa nhận là có nhiều ưu điểm nổi bật. Tìm hiểu phần hướng dẫn chung trong sách đa số giáo viên đã nắm được cơ bản của phương pháp giảng dạy mới, song đi sâu vào từng bài cụ thể thì sự lúng túng và vấp váp lại không ít. Do vậy nắm vững sách, hiểu ý đồ của người biên soạn là quan trọng, song chưa đủ mà nó còn đòi hỏi đến vai trò chủ động, sáng tạo và ứng xử linh hoạt đối với từng đối tượng học sinh khác nhau, có như vậy mới đem lại hiệu quả cao. Giáo viên giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, phát hiện kịp thời đọc sai, đọc ngọng trọng học sinh. Giáo viên phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa cách phát âm sai cho học sinh thật tận tình chu đáo. Giảm bớt hoặc sửa lại câu hỏi cho sát với từng đối tượng học sinh, tránh giảng triền miên, nói nhiều, viết nhiều trong khi học sinh đọc còn yếu. Luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em có tiến bộ. Rèn cho các em đọc trước đám đông, tổ chức thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong lớp, trong trường vào những ngày sinh hoạt tập thể, kỷ niệm ngày lễ lớn. Yêu cầu mỗi học sinh phải có quyển sổ ghi chép để chép những câu thơ, câu văn, bài thơ, bài văn hay và nhật ký ghi chépcác tiếng, từ có âm, vần dễ lẫn v vdưới sự hướng dẫn của giáo viên. Phối hợp nhịp nhàng về chương trình môn tập đọc với các môn học khác như: Tập làm văn, kể chuyện... 8/ Phạm vị áp dụng đề tài Trên đây là một số suy nghĩ và việc làm cụ thể của tôi về vấn đề rèn đọc đúng chuẩn âm Tiếng Việt và đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3C trường Ttiểu học Trần Quốc Toản. Với phương pháp rèn đọc này sẽ là tiền đề để tiếp tục dạy và học môn tập đọc ở lớp 4, 5 đạt kết quả tốt. Vì vậy nếu có thể cải tiến mở rộng cách hướng dẫn thì đề tài này có thể áp dụng tốt khi dạy môn tập đọc lớp 4, 5 đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi cao hơn. 9/ Những vấn đề kiến nghị Để việc đọc của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi tạm mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo có liên quan như sau: Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các phân môn, trong đó đó có tập đọc. Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên. Hàng năm tổ chức phong trào thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm cho giáo viên và cho học sinh trong khối, trong trường và toàn huyện. Những vấn đề còn bỏ ngỏ: - Giáo viên: Qua qua trình giảng dạy môn tập đọc đặc biệt về rèn đọc đúng chuẩn âm, đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 tôi thấy còn nhiều khó khăn và có những mặt hạn chế. - Về học sinh: Một số em học sinh còn đọc ngọng, đọc nhỏ và lí nhí chưa phát âm đúng. Bản thân các em cần phải chịu khó rèn luyện nhiều hơn. Phần thứ ba Kết luận Thông qua thực tế giảng dạy trên lớp hàng ngày tôi đi đến kết luận rằng: Muốn rèn luyện cho học sinh đọc đúng chuẩn âm Tiếng Việt và đọc diễn cảm tốt thì vai trò của người thầy giáo đặc biệt quan trọng, bởi người thầy giáo luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong cách phát âm chuẩn Tiếng Việt và đọc diễn cảm, để học sinh bắt trước. Trong mỗi giờ tập đọc, người thầy phải hướng dẫn cách đọc cho học sinh thật tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, từng đoạn văn, phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa kịp thời tuỳ theo từng đối tượng học sinh thật tận tình chu đáo. Để làm được việc đó, mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, luôn luôn trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiêm của các bạn đồng nghiệp, để nâng cao chất lượng dạy và học ở các môn, đặc biệt là môn tập đọc ở tiểu học. Trên đây mới là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ tập đọc lớp 3C, trong thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, bí quyết nghề nghiệp khác nhau, nhằm mục đích cuối cùng là “nâng cao chất lượng dạy và học”. Có lẽ đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót và hạn chế, tôi mong được các cấp trên, cùng các bạn đồng nghiệp, góp ý kiến bổ sung để kinh nghiệm dạy học của tôi thêm phong phú, hoàn thiện hơn, góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1/ Sách giáo khoa Tiếng Việt 3. Tập 1, Tập 2- Nhà xuất bản GD, năm 2007 2/ Sách giáo viên Tiếng Việt 3. Tập 1, Tập 2 - Nhà xuất bản GD, năm 2007 3/ Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học Lớp 3- Bộ GD&ĐT năm 2009. 4/ Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học- Nhà xuất bản GD, năm 2007. 5/ Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. Tác giả: Nguyễn Quý Thành, trường Đại học Quy Nhơn, năm 2010. Tân Thành, ngày 12 tháng 10 năm 2011 Người viết Lương Văn Hạnh NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC 1/ CẤP TRƯỜNG ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... .................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 2/ CẤP HUYỆN ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... .................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... MỤC LỤC Trang Nội dung 1 Bìa phụ 2,3 Phần thứ nhất: Đặt vấn đề 4 Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề: 1/ Điều tra thực trạng a/ Về người dạy b/ Về người học 2/ Phương pháp nghiên cứu 5,6,7 3/ Những công việc thực tế đã làm 4/ Phương pháp tiến hành và các ví dụ 8 5/ Kết quả 6/ Lời bình 9 7/ Bài học kinh nghiệm 8/ Phạm vi áp dụng của đề tài 9/ Những vấn đề kiến nghị 10 Phần thứ ba: Kết luận 11 Tài liệu tham khảo 12 Nhận xét của hội đồng khoa học 13 Mục lục
Tài liệu đính kèm: