Lí do về tính cấp thiết.
Bậc tiểu học là bậc học đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của người học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên xã hội, hoạt động nhận thức, về hoạt động thực tiễn.
Môn Tiếng Việt cũng như Toán nói riêng có vai trò là những môn quan trọng đặc biệt tạo cho học sinh có một tiền đề vững chắc để học lên các lớp trên, đồng thời đáp ứng yêu cầu của con người trong thời đại mới. Song để giúp học sinh học toán đạt kết quả khả quan hơn là một vấn đề không đơn giản. Vì vậy môn Toán cần được chú trọng ở bậc học Tiểu học, để phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục trong giai đoạn mới. Mặt khác môn Toán còn góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, góp phần giáo dục lòng tự tin, tinh thần ham hiểu biết, tính cẩn thận, tinh thần vượt khó và hợp tác, hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn thận, ý chí vượt khó, .
Sáng kiến kinh nghiệm: “Moọt soỏ vaỏn ủeà veà noọi dung vaứ phửụng phaựp daùy caực yeỏu toỏ hỡnh hoùc lụựp 3” Phần I: Đặt vấn đề 1. Lí do về tính cấp thiết. Bậc tiểu học là bậc học đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của người học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên xã hội, hoạt động nhận thức, về hoạt động thực tiễn. Môn Tiếng Việt cũng như Toán nói riêng có vai trò là những môn quan trọng đặc biệt tạo cho học sinh có một tiền đề vững chắc để học lên các lớp trên, đồng thời đáp ứng yêu cầu của con người trong thời đại mới. Song để giúp học sinh học toán đạt kết quả khả quan hơn là một vấn đề không đơn giản. Vì vậy môn Toán cần được chú trọng ở bậc học Tiểu học, để phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục trong giai đoạn mới. Mặt khác môn Toán còn góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, góp phần giáo dục lòng tự tin, tinh thần ham hiểu biết, tính cẩn thận, tinh thần vượt khó và hợp tác, hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn thận, ý chí vượt khó, ... Căn cứ vào Tài liệu “Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học” cho thấy môn Toán ở cấp tiểu học nhằm giúp học sinh: - Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số và số thập phân, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. - Hình thành những kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải toán có nhiều ứng dụng thực tế trong đời sống. - Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng (nói, viết) cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng thú học tập; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. 2. Mục đích nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm. Tìm hiểu một số vấn đề về nội dung, phương pháp dạy các yếu tố hình học lớp 3 để tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp. 3. Kết quả cần đạt được. Tìm ra phương pháp giảng dạy và các biện pháp rèn luyện kĩ năng phù hợp để khắc phục những sai sót mà giáo viên và học sinh thường mắc nhằm nâng cao hiệu quả dạy yếu tố hình học cho học sinh lớp 3. 4. Đối tượng, phạm vi và kế hoạch nghiên cứu + Đối tượng: Nội dung, phương pháp dạy các yếu tố hình học lớp 3. + Phạm vi: Học sinh lớp 3D trường Tiểu học Cương Chính. Phần II: nội dung 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm: Trong chương trình toán ở lớp 3, cùng với mạch kiến thức số học, giải toán có lời văn thì dạy các yếu tố hình học là cơ hội tốt nhất để phát triển năng lực trí tuệ. Hình học không những thể hiện trong môn Toán mà còn được ứng dụng rộng rãi trong các môn học khác. Hình học trong Toán 3 gồm 3 nội dung: - Hình thành các biểu tượng hình học mới. + Giới thiệu góc vuông và góc không vuông. + Giới thiệu tâm, bán kính, đường kính của hình tròn. - Tính chu vi, diện tích một số hình học. + Giới thiệu diện tích của một hình. + Hình thành công thức, kĩ năng tính chu vi và diện tích hình chữ nhật, hình vuông. - Thực hành vẽ hình. + Vẽ góc vuông bằng thước thẳng và ê ke. + Vẽ đường tròn bẳng com pa. Đối với học sinh lớp 3 khi học các yếu tố hình học học sinh phải nhận biết các góc từ trực quan hình ảnh, vẽ được góc bằng thước thẳng và ê ke, nhận biết góc vuông, góc không vuông; nhận biết các yếu tố của hình (góc, cạnh và đỉnh) và đặc điểm của hình chữ nhật, hình vuông. - Dựa vào đặc điểm về cạnh, góc của hình chữ nhật, hình vuông hình thành cách tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông và bước đầu ứng dụng vào thực tế. - Phân biệt điểm ở giữa, trung điểm của đoạn thẳng. - Biết sử dụng com pa vẽ hình tròn và nắm được tâm, bán kính, đường kính, thực hành vẽ trí hình tròn. Từ những kiến thức trên học sinh ứng dụng vào việc nhận dạng hình, ghép hình, vẽ hình và giải toán có lời văn liên quan đến các yếu tố hình học. Cụ thể: * Biểu tượng về các hình hình học. - Nhận biết, gọi tên và nêu được một số đặc điểm của một số hình hình học: góc vuông, góc không vuông; hình chữ nhật (có 4 góc vuông, 2 cạnh dài bằng nhau, 2 cạnh ngắn bằng nhau); hình vuông (có 4 góc vuông và 4 cạnh bằng nhau); hình tròn ( tâm, đường kính, bán kính); nhận biết điểm ở giữa 2 điểm, trung điểm của một đoạn thẳng. *Tính chu vi, diện tích của hình hình học: - Biết tính chu vi hình chữ nhật, hình vuông ( theo quy tắc) - Biết tính diện tích hình chữ nhật, hình vuông ( theo quy tắc) * Thực hành vẽ hình: - Biết dùng ê ke để xác định góc vuông, góc không vuông. - Biết dùng thước thẳng để xác định trung điểm của một đoạn thẳng cho trước trong trường hợp đơn giản: đường thẳng vẽ trên giấy kẻ ô li, số đo độ dài đoạn thẳng là các số chẵn (2cm, 4cm, 6cm,) - Biết dùng com pa để vẽ hình tròn - Biết vẽ đường kính, bán kính của một hình tròn cho trước (có tâm xác định). Như vậy, muốn học sinh học tốt môn toán thì yếu tố quyết định là người thầy phải có phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao chất lượng đồng thời cần phát huy được tính tích cực của học sinh trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng chung. Giáo viên giúp học sinh tự phát hiện ra vấn đề của bài học để tự chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng được kiến thức mới, góp phần tạo hứng thú và lòng tự tin trong học tập đặc biệt là nội dung các yếu tố hình học ở lớp 3 trên cơ sở hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Nhận thức rõ vấn đề này tôi mạnh dạn tìm hiểu:"Một số vấn đề về nội dung và phương pháp dạy các yếu tố hình học lớp 3" 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm: Thực trạng của việc dạy nội dung các yếu tố hình học ở lớp 3, qua quá trình giảng dạy, qua dự giờ thăm lớp bạn bè đồng nghiệp cùng với việc tìm hiểu nghiên cứu sách giáo khoa, sách bài soạn tôi thấy một số giờ giáo viên và học sinh còn lúng túng và bất cập ở một số điểm sau: + Về học sinh: - Tính thực tế của học sinh còn hạn chế. Ví dụ việc phát hiện những đồ vật có dạng hình học. - Phần thực hành của học sinh chưa đạt hiệu quả cao như vẽ chưa chính xác, chưa đúng và đẹp. Ví dụ vẽ hình tròn thường là học sinh vẽ chưa sắc nét, chưa chuẩn theo bán kính quy định. + Về giáo viên: Còn coi nhẹ kiến thức, chưa nghiên cứu thật kĩ bài dạy, chưa xác định thật rõ mục tiêu bài dạy ở mức độ cần truyền đạt tới đâu, giới hạn kiến thức ở mức độ nào? Đâu là kiến thức trọng tâm của bài dạy... Đôi lúc còn yêu cầu cao đối với học sinh (vượt ra ngoài trình độ chuẩn). Ví dụ: Một số giáo viên khi dạy biểu tượng về góc đã yêu cầu học sinh nắm định nghĩa về góc về miền trong của góc. Trong khi đó mục tiêu chỉ cần học sinh có biểu tượng về góc qua hỉnh ảnh hai kim đồng hồ tạo thành góc, từ đó nhận biết, nêu tên đúng góc vuông, góc không vuông; kiểm tra góc bằng ê ke. Hay khi dạy về hình tròn đã yêu cầu học sinh xác định khái niệm hình tròn, đường tròn mà thực tế ở lớp 3 chỉ giới thiệu hình tròn cùng với tâm, bán kính, đường kính của nó. Khi dạy còn phụ thuộc nhiều vào sách giáo viên và sách học sinh ở các tiết học mà thực tế cho ta thấy sách giáo viên chỉ là cái sườn chung gợi ý chính giúp giáo viên không truyền thụ sai mục đích tiết dạy mà thôi. Với loại bài luyện tập hoặc thực hành giáo viên còn coi nhẹ việc cho học sinh được tự hoạt động (Tự vẽ, xếp, ghép hình, tính toán tìm ra kết quả ), đôi khi vẫn còn áp đặt và làm thay học sinh. Qua tiến hành kiểm tra khảo sát học sinh. Ví dụ như dạy bài "Góc vuông, góc không vuông” ở lớp 3 kết quả như sau: Số HS được khảo sát Số HS hiểu và nhớ bài Số HS chưa hiểu bài 13 8 = 61,5% 5 = 38,5% Nhìn vào kết quả trên tôi thấy chưa hài lòng. Tôi bắt đầu đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân vì sao và thấy vướng mắc ở những vấn đề sau: Quá trình hình thành biểu tượng ban đầu của một số hình khi giới thiệu qua vật mẫu chẳng hạn "góc vuông, góc không vuông" còn hạn chế còn cứng nhắc, yêu cầu cao. - Khi học sinh tìm những đồ vật xung quanh có dạng góc thường là học sinh không tìm được. - Mặt khác chưa gợi trí tò mò cho học sinh để học sinh tự khám phá kiến thức. Quá trình rèn luyện thực hành cho học sinh đôi lúc chỉ ở một vài dạng quen thuộc, chưa đa dạng phong phú, chưa chú ý tới rèn luyện trí tưởng tượng, phát triển vốn từ vựng về hình học cho học sinh. - Phương pháp dạy học tích cực cho học sinh chỉ mới dừng ở mức độ hình thức. Chưa phát huy tính sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn với một số bài cắt ghép hình thì giáo viên chỉ dừng lại ở một số cách đơn giản, chưa khai thác triệt để các cách, các phương án có thể để giải quyết bài toán. 3. Mô tả các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy các yếu tố hình học ở lớp 3 Khi dạy các các yếu tố hình học tôi đã cần quan tâm tới các vấn đề sau: Các biểu tượng về hình, các kĩ năng nhận dạng vẽ hình, rèn óc quan sát và trí tưởng tượng phát triển vốn từ vựng về hình học. Các yếu tố hình học có cấu trúc đồng tâm lôgic với nhau. Giáo viên phải có thuật ngữ toán học chính xác rõ ràng phù hợp với tư duy của học sinh làm cho học sinh tiếp thu bài dễ hơn, vận dụng kiến thức mới vào luyện tập linh hoạt hơn. Sau mỗi bài học, tôi cho học sinh được thực hành ngay trên phiếu học tập. Nội dung các bài tập sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra thực hành ngay trên phiếu còn phát huy được năng lực của học sinh khá giỏi vì khi làm bài tập trên phiếu học tập học sinh khá giỏi không phải chờ các bạn yếu cùng làm. Chính vì vậy việc tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học là nhu cầu cần thiết đối với giáo viên, giáo viên phải nắm bắt đúng kiến thức trọng tâm của tiết dạy, hiểu ý đồ sách giáo khoa để từ đó lựa chọn phương pháp dạy một cách linh hoạt có hiệu quả với nội dung thực tiễn của từng bài. Khi dạy các yếu tố hình học trong Toán 3 bản thân phải nắm vững các đặc điểm về nội dung: - Nội dung hình học trong Toán 3 tiếp tục củng cố và mở rộng các yếu tố hình học trong Toán 1 và Toán 2. Từ những kĩ năng ban đầu về hình dạng hình học (hình vuông, hình tròn, hình tam giác, điểm, đoạn thẳng, độ dài đoạn thẳng, điểm ở trong điểm ở ngoài một hình ở lớp 1 đến hình chữ nhật, hình tứ giác, đường thẳng, đường gấp khúc, chu vi hình tam giác, chu ... đường kính, bán kính, độ dài bán kính bằng nửa độ dài đường kính.” Như vậy với lớp 3 học sinh nhận biết hình qua cách “ kiểm tra” hình dạng bằng ê ke, com pa, thước đo độ dài như: Nhận biết góc vuông, góc không vuông (bằng ê ke); nhận biết trung điểm của đoạn thẳng (đo bằng thước có chia vạch xăng – ti - mét); Nhận biết hình tròn (bằng com pa). Khi dạy kĩ năng nhận dạng hình tôi tiến hành theo các hình thức bài tập sau: + Nhận dạng hình theo yêu cầu: Với dạng bài tập này giáo viên tiến hành như sau: - Yêu cầu học sinh làm việc cá nhân thao tác trên hình : dùng ê ke, thước hay com pa đo, kiểm tra để nhận biết đúng yêu cầu. Giáo viên bao quát giúp đỡ học sinh - Học sinh nêu kết quả. - Học sinh giải thích cách lựa chọn: Có thể giải thích theo cách lựa chọn hình đúng hoặc giải thích theo hình sai Ví dụ: Bài 2/42 Trong các hình dưới đây: Nêu tên đỉnh và các cạnh góc vuông; D Nêu tên đỉnh và các cạnh góc không vuông; G I C C K B H A D E M Q N G X I P Như vậy ở bài này học sinh dùng ê ke đo từng góc sau đó học sinh đọc tên đỉnh và các cạnh góc vuông, góc không vuông. (Góc vuông đỉnh A cạnh AD, AC; góc vuông đỉnh D cạnh DM, DN). Bài 1/84: Trong các hình dưới đây hình nào là hình chữ nhật? A B M N E G R S D C Q P I H U T - ở bài này học sinh dùng ê ke và thước đo kiểm tra các góc và cạnh của mỗi hình, dựa vào đặc điểm về cạnh và góc của hình chữ nhật để nhận thấy các hình chữ nhật - Học sinh nêu tên các hình chữ nhật là MNPQ, RSTU - Tại sao 2 hình này là hình chữ nhật? (2 hình có 4 góc vuông và 2 cạnh dàI bằng nhau, 2 cạnh ngắn bằng nhau) Bài 1/85: Trong các hình dưới đây hình nào là hình vuông? E G N A B P M C Q I H D Bài 1/111: Nêu tên các bán kính, đường kính có trong mỗi hình. P C I O B A N M O Q D + Dạng bài tập trắc nghiệm: Cho sẵn một số tình huống trong đó có 1 tình huống đúng, các tình huống còn lại đều sai, học sinh cần xác định tình huống đúng/sai. Với dạng bài tập này học sinh quan sát đo đạc, đối chiếu với kiến thức đã học hay cắt ghép hình để nhận ra trường hợp đúng/sai sau đó khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời hoặc đánh dấu x vào ô trống. - Ví dụ : 1. Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng: Số góc vuông trong hình bên là: 1 2 3 4 - Bài này học sinh phải dùng ê ke đo các góc rồi khoanh vào chữ cái D 2. Đúng ghi Đ, sai ghi S: Độ dài đoạn thẳng OC dài hơn độ dài đoạn thẳng OD Độ dài đoạn thẳng OC ngắn hơn độ dài đoạn thẳng OM Độ dài đoạn thẳng OC bằng 1/2 độ dài đoạn thẳng CD M O C D - Với bài này học sinh phải dựa vào kiến thức đã học về mối quan hệ giữa bán kính và đường kính để tìm ra đáp án đúng là đáp án thứ 3. 3. Câu nào đúng, câu nào sai? A a. Diện tích hình tam giác ABC lớn hơn diện tích hình tứ giác ABCD b. Diện tích hình tam giác ABC nhỏ hơn diện tích hình tứ giác ABCD c. Diện tích hình tam giác ABC bằng diện tích hình tứ giác ABCD D B C - Bài này học sinh phải dùng hình thức cắt ghép hình để tìm đáp án đúng + Dạng bài tập gấp, cắt, ghép hình. 1. Hai miếng bìa nào có thể ghép lại được 1 góc vuông như hình A hoặc hình B? A 1 2 B 4 3 2. Gấp mảnh giấy theo hình để được 4 góc vuông. 3.Gấp tờ giấy hình chữ nhật ABCD rồi đánh dấu trung điểm I của đoạn thẳng AB và trung điểm K của đoạn thẳng DC. B A B I B I A A C C D D K C K D 4. So sánh diện tích hình A với diện tích hình B A B Với bài này, học sinh có thể so sánh diện tích của 2 hình bằng cách đếm số ô vuông hoặc cắt ghép hình tam giác thành hình vuông để so sánh và ngược lại. * Học sinh không chỉ có kĩ năng nhận dạng hình mà còn thực hành vẽ hình: Để học sinh vẽ được các hình vấn đề ở đây giáo viên phải rèn cho học sinh kĩ năng sử dụng đồ dùng (ê ke, com pa, thước) để vẽ hình. Những lỗi học sinh thường mắc khi thao tác trên đồ dùng như: Đặt góc vuông của ê ke chưa đúng; Giữ thước không chặt, hay bị lệch; Cầm com pa không đúng cách dẫn đến các hình vẽ không chuẩn như vậy khi dạy giáo viên cần chú ý tới các lỗi này của học sinh để sửa - Ví dụ 1. Dùng ê ke để vẽ góc vuông. A B C Với bài này học sinh phải dùng ê ke để vẽ cạnh thứ hai của góc, giáo viên cần lưu ý học sinh đặt đỉnh góc vuông của ê ke trùng với điểm cho trước, một cạnh góc vuông của ê ke trùng với cạnh cho trước, dùng thước vạch theo cạnh góc vuông còn lại của ê ke. 2) a. Kẻ thêm một đoạn thẳng để được hình chữ nhật. b. Kẻ thêm một đoạn thẳng để được hình vuông. 3. Xác định trung đIểm của đoạn thẳng CD. C D 4. Vẽ hình tròn tâm O bán kính 2cm. Vẽ hình tròn tâm O bán kính 3cm. * Việc dạy học về tính chu vi, diện tích hình chữ nhật; hình vuông ở lớp 3 nhằm mục đích cho học sinh vận dụng được các quy tắc tính chu vi, diện tích để tính chu vi, diện tích các hình. Mỗi bài học thường thực hiện 3 bước: + Bước 1: Xây dựng (hình thành) quy tắc. + Bước 2: Nắm được (học thuộc) các quy tắc. + Bước 3: Vận dụng các quy tắc vào các bài luyện tập thực hành. - Ví dụ: Bài “Chu vi hình chữ nhật” + Bước 1: Từ hình chữ nhật chiều dài 4cm, chiều rộng 3cm dẫn đến tính chu vi hình chữ nhật bằng cách lấy (Chiều dài + Chiều rộng) x 2 - HS áp dụng cách tính chu vi hình tứ giác vào bảng con: 4 + 3 + 4 + 3 = 14 (cm) - Hình chữ nhật có đặc điểm gì về cạnh? (2 chiều dài bằng nhau, 2 chiều rộng bằng nhau) - Dựa vào đặc điểm đó tìm cách tính khác? (4 + 3) x 2 = 14 (cm) Đây chính là cơ sở để hình thành quy tắc tính chu vi hình chữ nhật. + Bước 2: Cho học sinh nắm quy tắc: - 4 và 3 là số đo yếu tố nào? (chiều dài và chiều rộng) - Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta làm như thế nào? - Học sinh đọc lại quy tắc. + Bước 3: Vận dụng quy tắc để giải quyết ví dụ giáo viên đưa và các bài tập 1, 2, 3 trong SGK. - Ví dụ: Bài “Diện tích hình chữ nhật” + Bước 1: Xác định diện tích hình chữ nhật: Học sinh lấy hình chữ nhật, các hình vuông đơn vị 1cm2 - Xếp các hình vuông đơn vị phủ kín hình chữ nhật. - Đếm số ô vuông. - Diện tích hình chữ nhật là bao nhiêu? (12 cm2) + Bước 2: Tìm quy tắc tính diện tích hình chữ nhật. Yêu cầu học sinh tìm quy tắc tính diện tích hình chữ nhật theo cách sau: Không đếm, tính số ô vuông theo hàng: 4 x 3 = 12 cm2 Không đếm, tính số ô vuông theo cột: 3 x 4 = 12 cm2 Nêu số đo chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật? So sánh các thừa số khi tính diện tích hình chữ nhật với chiều dài và chiều rông? Nêu cách tính diện tích hình chữ nhật theo chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật + Bước 3: Vận dụng quy tắc làm bài tập 1, 2, 3 Bài toán có nội dung hình học được lồng trong mạch kiến thức “Dạy học giải toán có lời văn” (Tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông). Vì vậy bên cạnh kiến thức về hình học cũng cần rèn kĩ năng giải toán có lời văn. + Bước 1: Đọc kĩ đề – xác định yêu cầu. + Bước 2: Phân tích, xác định lời giải. + Bước 3: Trình bày bài giải có câu trả lời. + Bước 4: Kiểm tra lời giải và đáp số. Với cách dạy theo tinh thần đổi mới phương pháp lấy học sinh làm trung tâm là toàn diện và hệ thống hơn, có khả năng phát triển, khả năng diễn đạt và kích thích tư duy cho các em. Các bài dạy, các nội dung được sắp xếp xen kẽ và được trình bày một cách cụ thể sinh động với nhiều hình vẽ trức quan nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác, tính khoa học. Hệ thống bài tập được sắp xếp từ dễ đến khó, các bài tập ban đầu thường nhằm mục đích củng cố kiến thức, các bài tập tiếp theo có yêu cầu rèn luyện kĩ năng thực hành từ mức độ thấp đến cao, bài tập cuối cùng yêu cầu mở rộng nâng cao. Để góp phần hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động khoa học, sáng tạo cho học sinh giáo viên cần tổ chức các hoạt động học tập, thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn để học sinh tìm hiểu kĩ vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có của học sinh. 4. Kết quả thực hiện: Sau một thời gian áp dụng cách làm trên cho học sinh lớp 3, tôi tiến hành khảo sát và thu được kết quả: Số học sinh khảo sát Số HS hiểu bài Số HS chưa hiểu kĩ bài 13 12 = 92,3% 1 = 7,7% Như vậy, với cách làm trên tôi thấy học sinh nắm bài tương đối chắc chắn song còn những em chưa thật hiểu bài tôi hi vọng dần dần các em được làm quen với cách học ở những tiết sau. Phần III: Kết luận và khuyến nghị Như vậy để học sinh học toán đạt kết quả khả quan thì người giáo viên cần có phương pháp dạy học thích hợp, phải có lòng yêu nghề, mến trẻ tích cực học tập đồng nghiệp, tìm tòi nghiên cứu sáng tạo. Có như vậy thì việc lĩnh hội của học sinh chủ động sáng tạo hơn. Tất cả các em đều tham gia vào hoạt động học. Nhận thức không lệ thuộc vào giáo viên hướng dẫn mà tự mình đạt tới nội dung bài học. Nói tóm lại: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy toán nói chung nội dung hình học nói riêng là việc làm thường xuyên với giáo viên vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần có sự cân nhắc lựa chon phương pháp sao cho phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh để đạt được yêu cầu, kiến thức của bài dạy. Muốn vậy mọi giáo viên cần phải: - Kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp dạy học như: trực quan, quan sát, thảo luận nhóm nhỏ, thuyết trình, thực hành luyện tập, ... - Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Phải gợi ý, gợi trí tò mò của các em để các em tự khám phá kiến thức mới. Ngôn ngữ, kiến thức của giáo viên cần chính xác phong phú. - Khai thác từ tính trực quan tổng thể đến cụ thể chi tiết. Sử dụng đồ dùng trực quan hoặc gắn với các đồ vật trong thực tế có hình dạng hình học phù hợp. - Tổ chức cho học sinh liên hệ khái niệm, kiến thức đã học với khái niệm, kiến thức mới. - Những bài có nội dung thực hành giáo viên tổ chức cho học sinh tự động, tự do thao tác trên hình để tìm ra kết quả, tránh áp đặt hay làm thay học sinh. Những vấn đề tôi nêu ra không ngoài mong muốn được trao đổi cùng đồng nghiệp, góp phần bé nhỏ vào phong trào "Dạy tốt - Học tốt". Rất mong sự đóng góp của đồng nghiệp để vấn đề tôi nêu ra được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người viết ý kiến đánh giá và xếp loại của hội đồng khoa học của nhà trường . Chủ tịch hội đồng ( Ký, đóng dấu)
Tài liệu đính kèm: