A.Phần mở đầu
I. Lí do chọn chuyên đề.
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe-nói-đọc-viết”. Trong đó môn Tiếng Việt có các phân môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy-chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.
A.Phần mở đầu Lí do chọn chuyên đề. Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe-nói-đọc-viết”. Trong đó môn Tiếng Việt có các phân môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm vănTrong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy-chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói-ngôn bản, và dưới dạng viết-văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 3 nói rêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập làm văn theo hướng đổi mới như thế nào để đáp ứng được khả năng tiếp thu của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn. Qua thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp giới thiệu về mình và những người xung quanh.Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm chuyên đề “Dạy Tập làm văn lớp 3 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới”. Cơ sở thực tiễn và lý luận: Cơ sở lý luận: Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọngcủa môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết; phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo lập văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết, cách hành văn cho học sinh. Tóm lại: Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động trong học tâp; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn được tốt. Cơ sở thực tiễn: 2.1 Thuận lợi: + Đối với giáo viên: Năm học 2007 _2008là năm thứ sáu tiến hành chương trình thay sách, giáo viên đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách cơ bản, việc sử dụng dồ dùng tương đối có hiệu quả. Sự chỉ đạo chuyên môn của phòng giáo dục, trường, tổ chuyên môn có vai trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn. Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành công khi dạy Tập làm văn. Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo giáo viên tiếp cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn. + Đối với học sinh Học sinh lớp ba đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học. Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập Làm Văn như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3. 2.2 Khó khăn: + Đối với học sinh: Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao. Sự hiểu biết của hs lớp 3 về phân môn tập làm văn còn hạn chế. Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn tập làm văn của lớp 2. Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học. Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgic; tính sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động. Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình. + Đối với giáo viên: Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập Làm Văn đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. Cần phải có vốn sống thực tế, người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản, ngôn ngữ quả không dễ. Các điều về CSVC phần nào chưa đáp ứng được đầy đủ cho việc nghiên cứu, giảng dạy học tập của giáo viên, một số bài dạy còn thiếu tranh ảnh, nên giáo viên dùng lời nói mô tả học sinh tiếp thu trừu tượng. Kết quả giờ dạy còn hạn chế. Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi tiến hành kiểm tra môn Tập làm văn lớp 3 vào buổi học 2 buổi (năm học 2010-2011) với đề bài như sau: Hãy kể về gia đình em với người bạn mới quen. Kết quả kiểm tra như sau:Tổng số học sinh lớp 3A3: 20 em. Nội dung kiểm tra Số học sinh Tỷ lệ% 1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý. 9/20 50.5% 2. Biết nói-viết thành câu. 15/20 55.5% 3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. 9/20 15.3% 4.Biết trình bày đoạn văn. 11/20 40% Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên 11/20 67% Qua Kiểm tra cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít; do vậy chất lượng bài viết của các em chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này thể hiện phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: Các tiết dạy Tập làm văn lớp 3. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp quan sát thông qua dự giờ. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, kiểm tra đối chứng. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu. B. Phần nội dung Nội dung chương trình SGK và các hình thức luyện tập làm văn lớp 3 Nội dung dạy học: Chương trình Tập làm văn lớp 3 bao gồm 35 tiết/năm (thực học 31 tiết + 4 tiết ôn tập): Kỳ 1: 16 tiết + 2 tiết ôn tập. Kỳ 2: 15 tiết + 2 tiết ôn tập. Yêu cầu trang bị cho học sinh một số kiến thức và kĩ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng ngày như: điền vào giấy tờ in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức họp và phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, trường, ghi chép sổ tay Tiếp tục rèn kĩ năng đọc, nghe, nói, viết thông qua kể chuyện và miêu tả như: kể một việc đơn giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc bằng câu hỏi. Rèn kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe. Các hình thức luyện tập Các hình thức luyện tập. Bài tập nghe Bài tập viết Bài tập nói 1.Bài tập nghe: Gồm các tiết: - Tuần 4: Nghe kể: Dại gì mà đổi. - Tuần 7: Nghe kể: Không nỡ nhìn. - Tuần 11: Nghe kể: Tôi có đọc đâu. - Tuần 14: Tôi cũng như bác. - Tuần 15: Nghe kể: Giấu cày. - Tuần 16: Nghe kể: Kéo cây lúa lên. - Tuần 19: Nghe kể: Chàng trai Phù ủng. - Tuần 21: Nghe kể: Nâng niu từng hạt giống. - Tuần 24: Nghe kể: Người bán quạt may mắn. - Tuần 34: Nghe kể: Vươn tới các vì sao. * Yêu cầu các bài tập nghe: - Học sinh hiểu nội dung câu chuyện, thuật lại được câu một cách mạnh dạn, tự tin. - Học sinh thấy cái hay cái đẹp, cái cần phê phán trong câu chuyện. - Biết diễn đạt rõ ràng thành câu, dễ hiểu. - Giọng kể phù hợp nội dung từng câu chuyện. Bài tập nói: Gồm các tiết: - Tuần 1: Nói về Đội TNTP. - Tuần 5: Tập tổ chức cuộc họp. - Tuần 6: Kể lại buổi đầu em đi học. - Tuần 8: Kể về người hàng xóm. - Tuần 11: Nói về quê hương. - Tuần 12: Nói về cảnh đẹp đất nước. - Tuần 15: Giới thiệu về tổ em. - Tuần 16: Nói về thành thị nông thôn. - Tuần 20: Báo cáo hoạt động. - Tuần 21: Nói về tri thức. - Tuần 22: Nói về người lao động trí óc. - Tuần 25: Kể về lễ hội. - Tuần 26: Kể về một ngày hội. - Tuần 28: Kể lại một trận thi đấu thể thao. - Tuần 32: Nói về bảo vệ môi trường. * Yêu cầu: - Học sinh nói đúng và rõ ý, diễn đạt rõ ràng dễ hiểu. - Học sinh nói theo nội dung, chủ đề cho trước. - Nói thành câu, biết cách dùng từ chân thực. - Nói thành đoạn văn. Bài tập viết: Gồm các tiết: - Tuần 1: Điền vào giấy tờ in sẵn (ĐTNTP). - Tuần 2: Viết đơn. - Tuần 3,4: Điền vào tờ giấy in sẵn. - Tuần 10: Tập viết thư và phong bì thư. - Tuần 12: Viết về cảnh đẹp đất nước. - Tuần 13: Viết thư. - Tuần 17: Viết về thành thị nông thôn. - Tuần 22: Viết về người lao động trí óc. - Tuần 28: Viết lại một tin thể thao trên báo, đài. - Tuần 29: Viết về một trận thi đấu thể thao. - Tuần 30: Viết thư. - Tuần 32: Viết về bảo vệ môi trường. * Yêu cầu các bài tập viết: - Đủ số lượng câu. - Trình bày thành đoạn văn. - Biết cách chấm câu, viết các câu theo mẫu đã học (ai là gì, ai làm gì?, để ntn?). - Biết cách dùng từ (biết sử dụng phép so sánh, nhân hoá) Các phương pháp dạy tập làm văn. 1. Phương pháp sử dụng trực quan. 2. Phương pháp thực hà ... ạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo hướng đổi mới. Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “học mà chơi-chơi mà học”. Không khí học tập thoái mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu. So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết Tập làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: giáo viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa các câu hỏi gợi ý... khiến học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu, không khuyến khích học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em. Trong chương trình thay sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe-nói, nói-viết, nghe-nói-viết...Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy-học, phân bố thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Ví dụ 1: Tiết tập làm văn (tuần11) với hệ thống bài tập như sau: Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện “Tôi có đọc đâu”. Yêu cầu:Học sinh nghe và kể lại câu chuyện. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học: Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện. Thảo luận theo nhóm, theo cặp: học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa, tranh và việc nghe giáo viên kể để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe. Đại diện từng nhóm kể trước lớp. Học sinh nhận xét. Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm. Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh. Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở. Yêu cầu: Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học: Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập. Học sinh trình bày trước lớp Học sinh nhận xét bài làm của bạn Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm. Qua việc giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm: Đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh, khả năng diễn đạt sắp xếp các ý theo đúng trình tự bài học chưa. Từ nhận thức của học sinh giúp giáo viên lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp từ nội dung bài giảng, hệ thống câu hỏi gợi mở, hình thức luyện tập giúp học sinh phát huy khả năng của mình và đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra giáo viên đánh giá cách truyền thụ kiến thức, phương pháp giảng giải của chính bản thân để điều chỉnh cho phù hợp. Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo. 5. Dạy học hướng tập trung vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá nhân. Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: học sinh tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện. Ví dụ: Dạy Tập làm văn-Tuần 5. Bài: Tập tổ chức một cuộc họp. Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp. Xác định đúng mục đích cuộc họp, nguyên nhân của cuộc họp. Nêu lên tình hình chung. Đưa ra cách giải quyết (nhiều thành viên trong tổ, lớp được bày tỏ ý kiến). Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống phất phương án giải quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên. Các em tự lựa chọn nội dung cuộc họp tức là các em nói về vấn đề mình am hiểu nhất, phù hợp yêu cầu bài. Từ việc hiểu biết đó các em bàn cụ thể chi tiết có cách giải quyết thoả đáng, giúp cho người điều hành có ý kiến tập trung sâu sắc. Từ nhận xét, bày tỏ ý kiến của học sinh, giáo viên định hướng, hướng dẫn học sinh hình thức tổ chức: Người tổ chức cuộc họp, các thành viên trong tổ bất kỳ ai cũng có thể là người điều hành và cũng là thành viên. Vì vậy khả năng diễn đạt mỗi học sinh được điều chỉnh hoàn thiện dần. Như vậy thông qua một tiết Tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài. 6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các hoạt động ngoại khoá giúp học sinh có những hiểu biết thực tế ngoài kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: thi búp măng xinh, thi ca hát tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện-văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng khiếu Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỷ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (Bài học Tuần 6). Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, học sinh có nguyện vọng viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của ĐộiVí dụ: Tham dự hội thi tìm hiểu về Đội. +Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí Minh, giúp các em viết tốt hơn Đơn xin vào Đội (tiết Tập làm văn-Tuần 2) với yêu cầu: Em hãy viết đơn xin vào Đội với mẫu in sẵn. 7. Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp. Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, nâng cao dần về mức độ và lượng kiến thức qua từng lớp học. Do đó để đạt được hiệu quả tốt trong giảng dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới cần thực hiện đồng bộ việc vân dụng đổi mới phương pháp ở tất cả các khối lớp trước (lớp1-2) và tiếp theo (lớp 4-5). Cụ thể: Đối với lớp 1: Dạy học sinh tập nói thành câu, nói theo chủ đề, nội dung, nhìn tranh nói thành câu. Đối với lớp 2: Dựa trên nền tảng kiến thức học sinh đạt được ở lớp 1, nâng cao với mức độ vừa phải: kể lại câu chuyện đã học, nói-viết thành câu, đưa ra các mẫu câu (Ai là gì? Ai làm gì? Ai như thế nào?...), viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói, luyện viết; mẫu câu rộng, bao quát hơn; yêu cầu về câu cao hơn: câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, câu văn giàu hình ảnh. Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu văn tăng lên (5-7 câu), đã chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong câu văn, đoạn văn. Đối với lớp 4: Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt truyện có nhân vật, kể chuyện dựa trên cốt truyện có sẵn hoặc tưởng tượng; luyện viết: câu thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hóa theo nhiều kiểu khác nhau tiến tới viết thành bài văn. Đối với lớp 5: Học sinh luyên nói hoàn chỉnh về câu (câu ghép, các kiểu câu ghép), sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong bài viết, viết thành bài văn hoàn chỉnh với số lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung của bài. Học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong khi tả, kể, viết. Tóm lại, kiến thức ở các lớp có mối quan hệ lôgic: kế thừa, mở rộng, nâng cao. Do đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn phải đổi mới tất cả các khối lớp. C. Kết Luận Qua quá trình nghiên cứu chuyên đề, tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của dạy môn Tập làm văn. Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh học tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh. Tiến hành kiểm tra lại theo những tiêu chí ban đầu đề ra đối với khối lớp 3 tuần 13 bài: Viết một bức thư cho bạn ở một tỉnh miền Nam (hoặc miền Trung, miền Bắc) để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt. Kết quả thu được như sau: Nội dung khảo sát Số học sinh Tỷ lệ% 1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý. 18/20 76.4% 2. Biết nói-viết thành câu. 20/20 63.5% 3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. 17/20 53% 4.Biết trình bày đoạn văn. 19/20 63.5% Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên 18/20 82.3% Từ những kết quả nêu trên, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau: Bài học 1. Dạy Tập làm văn theo phương pháp “tích hợp-lồng ghép” các phân môn trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức phân môn Tập làm văn của các khối lớp. 2. Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kỹ năng nghe-nói-đọc-viết cho học sinh. 3. Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu. 4. Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ thể của hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận phù hợp với bài học. 5. Giáo viên biết cách phối hợp hoạt động học tập với các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trên đây là những bài học của tôi rút ra trong quá trình nghiên cứu và thực nghiệm chuyên đề.Rất mong được sự quan tâm, góp ý của đông đảo các đồng chí đồng nghiệp ở các trường, phòng giáo dục để đề tài của chúng tôi được hoàn thiện. Xin chân thành cảm ơn! Ngày 24 tháng11 năm 2010 Người thực hiện TRẦN THỊ THƯƠNG Ý kiến đánh giá của hội đồng chấm thi Xếp loại:
Tài liệu đính kèm: