Trong xu thế đổi mới của nền giáo dục nước nhà. Giáo dục Tiểu học đang tạo ra những chuyển dịch định hướng có giá trị. Cùng với những môn học khác Tự nhiên - Xã hội là một môn học có nhiều sự đổi mới, nó là tích hợp của 2 môn học cũ Sức khoẻ và Tự nhiên xã hội.
Môn Tự nhiên - Xã hội ở bậc Tiểu học được chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ lớp 1 đến lớp 3, giai đoạn 2 từ lớp 4 đến lớp 5 - nó có một vai trò quan trọng đó là: Tìm hiểu khám phá thế giới Tự nhiên - Xã hội xung quanh chúng ta và cách chăm sóc sức khoẻ cho mình, cho cộng đồng. Mỗi môn học đều có một sắc thái riêng, môn Tự nhiên - Xã hội cũng vậy. Tuy bản chất là cung cấp những kiến thức Tự nhiên - Xã hội có xung quanh chúng ta song trong sách giáo khoa lớp 3 không đưa ra kiến. thức đóng khung có sẵn mà là một hệ thống các hình ảnh bên cạnh các lệnh yêu cầu học sinh thực hiện. Học sinh muốn chiếm lĩnh tri thức không thể khác là thực hiện tốt các lệnh trong sách giáo khoa.
Vậy, làm thế nào để giáo viên có thể chuyển tải những nội dung và ý tưởng theo ngôn ngữ khô khan thành ngôn ngữ sống động, thực tế và hấp dẫn học sinh là một việc mà mỗi giáo viên khi dạy bộ môn này cần phải nỗ lực tìm tòi và nghiên cứu không ngừng.
Cho dù các giáo viên dạy môn này đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học thì một giờ Tự nhiên - Xã hội vẫn diễn ra với các hoạt động không mấy mới lạ đó là quan sát, đàm thoại và tổng hợp. Với rất nhiều tranh ảnh đẹp giàu màu sắc. Các em được lôi kéo vào xem một cách rất hồn nhiên. Nhưng yêu cầu quan sát tập trung đưa ra một vấn đề trọng tâm nhằm đạt được mục tiêu của bài học thì các em rất dễ nản. Nếu tiết Tự nhiên - Xã hội nào cũng lặp lại các lệnh: Quan sát, Đàm thoại, Mô tả.thì rất dễ làm các em mệt mỏi. Điều đó đòi hỏi giáo viên cần có sự thay đổi linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học.
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn TN- XH lớp 3” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trong khối 3 3. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Hường Nam (Nữ): Nữ Ngày tháng năm sinh: 07 – 07 – 1977 Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Đông Hợp Điện thoại: 01682429206; Mail: hoangngadonghop@gmail.com Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 4. Đồng tác giả (nếu có): Không Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tên đơn vị: Trường Tiểu học Đông Hợp Địa chỉ: Xã Đông Hợp, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình Điện thoại: 02273791318 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Tên đơn vị: Trường Tiểu học Đông Hợp Địa chỉ: Xã Đông Hợp, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình Điện thoại: 02273791318 7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 5 năm 2017 và những năm tiếp theo. II. BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1, Tên sáng kiến: Một số trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn TNXH lớp 3 2, Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trong khối 3 3, Mô tả bản chất của sáng kiến 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết Trong xu thế đổi mới của nền giáo dục nước nhà. Giáo dục Tiểu học đang tạo ra những chuyển dịch định hướng có giá trị. Cùng với những môn học khác Tự nhiên - Xã hội là một môn học có nhiều sự đổi mới, nó là tích hợp của 2 môn học cũ Sức khoẻ và Tự nhiên xã hội. Môn Tự nhiên - Xã hội ở bậc Tiểu học được chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ lớp 1 đến lớp 3, giai đoạn 2 từ lớp 4 đến lớp 5 - nó có một vai trò quan trọng đó là: Tìm hiểu khám phá thế giới Tự nhiên - Xã hội xung quanh chúng ta và cách chăm sóc sức khoẻ cho mình, cho cộng đồng. Mỗi môn học đều có một sắc thái riêng, môn Tự nhiên - Xã hội cũng vậy. Tuy bản chất là cung cấp những kiến thức Tự nhiên - Xã hội có xung quanh chúng ta song trong sách giáo khoa lớp 3 không đưa ra kiến. thức đóng khung có sẵn mà là một hệ thống các hình ảnh bên cạnh các lệnh yêu cầu học sinh thực hiện. Học sinh muốn chiếm lĩnh tri thức không thể khác là thực hiện tốt các lệnh trong sách giáo khoa. Vậy, làm thế nào để giáo viên có thể chuyển tải những nội dung và ý tưởng theo ngôn ngữ khô khan thành ngôn ngữ sống động, thực tế và hấp dẫn học sinh là một việc mà mỗi giáo viên khi dạy bộ môn này cần phải nỗ lực tìm tòi và nghiên cứu không ngừng. Cho dù các giáo viên dạy môn này đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học thì một giờ Tự nhiên - Xã hội vẫn diễn ra với các hoạt động không mấy mới lạ đó là quan sát, đàm thoại và tổng hợp. Với rất nhiều tranh ảnh đẹp giàu màu sắc. Các em được lôi kéo vào xem một cách rất hồn nhiên. Nhưng yêu cầu quan sát tập trung đưa ra một vấn đề trọng tâm nhằm đạt được mục tiêu của bài học thì các em rất dễ nản. Nếu tiết Tự nhiên - Xã hội nào cũng lặp lại các lệnh: Quan sát, Đàm thoại, Mô tả...thì rất dễ làm các em mệt mỏi. Điều đó đòi hỏi giáo viên cần có sự thay đổi linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học. Đối với học sinh lớp 3, ở lứa tuổi này các em còn mang đậm bản sắc hồn nhiên, sự chú ý chưa cao. Bên cạnh hoạt động học là chủ đạo thì nhu cầu chơi, giao tiếp với bạn bè vẫn tồn tại, cần được thoả mãn. Nếu người giáo viên biết phối hợp nhịp nhàng giữa nhiệm vụ của hoạt động học với sự thoả mãn nhu cầu chơi, giao tiếp của các em "học mà chơi, chơi mà học" thì chúng sẽ hăng hái say mê học tập và tất yếu kết quả của việc dạy học cũng đạt tới điểm đỉnh. Đây cũng là đặc thù của phương pháp dạy học đặc biệt: Phương pháp trò chơi. Dạy học bằng phương pháp trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh thay đổi động hình, chống mệt mỏi. Tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học. Phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh. Việc áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy học môn Tự nhiên - Xã hội chính là việc giáo viên khơi dậy hứng thú, niềm say mê học tập tạo không khí sôi nổi cho một giờ học. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu bài dạy cần đạt. Trên cơ sở đó xác định cần đưa trò chơi vào lúc nào? Nếu giáo viên không tổ chức tốt thì trò chơi không những không gặt hái được kết quả như mong muốn mà còn bị phản tác dụng gây sự hỗn độn không cần thiết. Trong quá trình dạy học giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp để đạt mục tiêu giờ dạy cao nhất. Song ở các lớp tôi dạy có tiết đã tổ chức đến 3 hoạt động khác nhau mà giờ học vẫn tẻ nhạt. Mỗi khi báo cáo kết quả thảo luận học sinh không những không đưa ra được kiến thức theo yêu cầu mà nội dung báo cáo có phần rập khuôn, xáo rỗng. Bên cạnh đó, có giờ giáo viên đưa tới 3 trò chơi vào giảng dạy kết quả là cả một giờ học không khí lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười, tiếng reo hò. Song chính vì trạng thái tâm lí bị kích thích quá ngưỡng làm cho sự nhận thức của học sinh không đạt được hiệu quả như mong muốn. Học sinh không nắm được kiến thức trọng tâm của bài. Xuất phát từ lí do đó tôi đã tìm tòi và chọn đề tài sáng kiến: "Một số trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy - học môn Tự nhiên - Xã hội lớp 3". 3.2. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN LÀ SÁNG KIẾN Mục đích: Trong quá trình dạy - học môn Tự nhiên - Xã hội ở lớp 3, tôi đã nhận thấy vận dụng các trò chơi vào dạy- học nhằm khơi dậy niềm hứng thú, niềm say mê học tập cho học sinh. Kích thích tính độc lập chủ động sáng tạo trong việc lĩnh hội tri thức, tạo không khí sôi nổi trong giờ Tự nhiên - Xã hội. Phạm vi, đối tượng: - Chương trình Tự nhiên - Xã hội lớp 3. - Các trò chơi vận dụng trong quá trình dạy học môn Tự nhiên - Xã hội. - Học sinh khối lớp 3, trường TH Đông Hợp Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp luận. - Phương pháp điều tra thực nghiệm. - Phương pháp đối chiếu so sánh. - Phương pháp rút kinh nghiệm. NỘI DUNG GIẢI PHÁP Do đặc điểm tâm lí của lứa tuổi nên khả năng chú ý tập trung còn yếu, tính kỉ luật chưa cao dễ mệt mỏi. Trong các tiết học bình thường trên lớp nếu sử dụng những phương pháp dạy học như thường lệ, tôi nhận thấy không hấp dẫn được khả năng tư duy sáng tạo của các em mà thường là một giờ học Tự nhiên - Xã hội thường diễn ra tẻ nhạt. Lớp thường mất trật tự, đôi khi trầm quá mức. Đa số học sinh không thích học hoặc sợ khi học giờ này. Nội dung: * Môn Tự nhiên - Xã hội lớp 3 được tích hợp từ 2 môn Sức khoẻ và Tự nhiên xã hội lớp 3 cũ sang, ở đây không có một bài Tự nhiên - Xã hội nào đưa ra kiến thức đóng khung có sẵn. Kênh hình thì rất nhiều, kênh chữ chủ yếu là các lệnh với một số tóm lược sơ đẳng của từng mảng kiến thức. Các bài Tự nhiên - Xã hội trong sách giáo khoa được chia thành 3 chủ điểm đó là: Con người và sức khoẻ, Xã hội, Tự nhiên. * Các kiến thức trong bài Tự nhiên - Xã hội được thể hiện chủ yếu bởi các tranh ảnh. Riêng ở mảng kiến thức Con người và Sức khoẻ học sinh được học trong 18 bài từ tuần 1 đến tuần 9 nội dung cơ bản là tìm hiểu về các cơ quan: Vận động, Tuần hoàn, Hô hấp, Thần kinh... cách vệ sinh phòng trừ các bệnh liên quan tới các cơ quan đó. * Ở mảng kiến thức xã hội học sinh được tìm hiểu thêm, sâu hơn về gia đình và các thế hệ trong gia đình. Một số hoạt động ở trường. Đặc biệt học sinh được khám phá các hoạt động Nông nghiệp, Công nghiệp, Thương mại, Thông tin liên lạc trong tỉnh và các nước. Học về Làng quê và Đô thị... Mảng kiến thức này kéo dài trong 20 bài (10 tuần). * Mảng kiến thức về Tự nhiên - Xã hội học sinh được tìm hiểu về thực vật, động vật học đến chi tiết các bộ phận của cây, rễ, hoa, quả, lá. Học về Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh trong hệ mặt trời song tất cả mới chỉ dừng lại ở kiến thức sơ đẳng, ở mảng này có một số bài rất gần gũi thực tế với học sinh như (Tôm, cua, cá, chim, thú...). Bên cạnh đó Tự nhiên - Xã hội lớp 3 còn cung cấp cho học sinh về năm, tháng, mùa các đới khí hậu và bề mặt của Lục địa... Tiến trình thực hiện * Đọc các tài liệu: - Thế giới trong ta. - Tập san Giáo dục và Thời đại. - Trò chơi trong Tự nhiên - Xã hội lớp 3. - Tâm lí tuổi học sinh Tiểu học. - Sách giáo viên và sách giáo khoa Tự nhiên - Xã hội lớp 3. * Khái quát về thành tích học tập và các hoạt động hàng ngày các em được học thông qua việc sử dụng các phương pháp đã nêu ở phần I để tiến hành nghiên cứu. Biện pháp thực hiện : + Về nhận thức: Giáo viên cần nhận thức rõ vai trò của phương pháp trò chơi trong quá trình dạy học ở Tiểu học nói chung và dạy môn Tự nhiên - Xã hội nói riêng. Phải hiểu rõ mục tiêu của từng bài, từng phần, từng mảng kiến thức và toàn bộ chương trình môn Tự nhiên - Xã hội ở lớp 3. + Về nội dung: Nhóm 1: Các trò chơi nhằm mục đích khai thác nội dung kiến thức của bài học. * Khi vận dụng phương pháp trò chơi vào khai thác nội dung kiến thức bài học giáo viên cần lưu ý. - Chọn trò chơi phải phù hợp với học sinh, nội dung bài và điều kiện thực tế có thể cho phép. - Ít nhất 3/4 số học sinh được tham gia. - Cần tránh hiện tượng chỉ một số học sinh khá giỏi được tham gia 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp * Sau đây là một số trò chơi có thể áp dụng để tổ chức cho học sinh khai thác nội dung kiến thức bài học. Trò chơi: Tôi cần đến đâu? * Mục tiêu: - Nhận biết và chỉ được các cơ quan hành chính cấp tỉnh. - Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh. - Ứng xử nhanh. * Cách chơi: - Giáo viên nêu yêu cầu chơi: "Tôi cần đến đâu". Đây là trò chơi yêu cầu các em quan sát kĩ bức tranh cô đã phóng to trên bảng và lắng nghe câu hỏi của cô giáo hoặc của bạn. Nhiệm vụ của các em là nói được tên nơi mà cô hoặc bạn cần đến sau đó lên chỉ nơi đó ở bức tranh trên bảng lớp. * Luật chơi: + Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm A, B. + Giáo viên nêu câu hỏi chỉ định 1 học sinh bất kì ở nhóm A chỉ đường. Học sinh chỉ được thì được phép yêu cầu một học sinh khác ở nhóm B chỉ đường đến nơi khác... cứ thế cho đến hết các địa điểm có trong tranh... Nếu học sinh được chỉ định không nói được nơi đến hoặc chỗ đến sai em đó sẽ nói "chuyển" để học sinh cùng nhóm với mình bên cạnh tiếp sức. Cứ mỗi lần nhóm nào có một học sinh nói từ "ch ... u sâu, nhớ lâu, khó quên bài. Trò chơi: Hoa nào đẹp? * Mục tiêu: - Củng cố tên các bộ phận của các cơ quan trong cơ thể người hoặc các Châu lục và Đại dương của Trái đất. Sự khác biệt giữa làng quê, đô thị... - Rèn kĩ năng xếp hình và khả năng nhanh nhạy óc phản xạ tốt. * Chuẩn bị: - Nhiều miếng bìa cắt hình cánh hoa trên mỗi cánh có ghi tên hoặc hình vẽ các cơ quan khác nhau trong cơ thể người như: Mũi, Phế quản, Phổi...(hay các Châu lục và Đại dương, các hoạt động, công trình kiến thiết của làng quê, đô thị...). - Chuẩn bị 4 bìa hình tròn làm nhị hoa trong đó ghi: Cơ quan hô hấp, cơ quan tuần hoàn, cơ quan bài tiết nước tiểu, cơ quan thần kinh (hoặc 2 miếng bìa ghi các Châu lục, các Đại dương, 2 miếng bìa ghi làng quê, đô thị...) - Nam châm băng dính dán sẵn vào các tấm bìa * Cách chơi: - Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm (hoặc 2 nhóm tuỳ theo số lượng bộ nhị và cánh hoa chuẩn bị được). - Giáo viên nêu yêu cầu: Hoa nào đẹp là trò chơi yêu cầu các đội phải tìm các cánh hoa sao cho phù hợp với nhị hoa rồi ghép lại thành bông hoa đẹp. * Luật chơi: Sau khi giáo viên hô bắt đầu thì tất cả học sinh thứ 1 của mỗi nhóm chạy lên lựa chọn nhị hoa cho nhóm mình. Tiếp đó học sinh chạy về cuối hàng của nhóm để học sinh thứ 2 chọn cánh...Trò chơi cứ thế tiếp tục cho đến khi cánh hoa cuối cùng được gắn. Đội nào gắn đẹp, nhanh đúng là đội thắng cuộc. * Trò chơi được áp dụng cho các bài: Bài 17-18: Ôn tập và kiểm tra: Con người và sức khoẻ Bài 20: Họ nội, họ ngoại. Bài 66: Bề mặt Trái Đất. Bài 69 -70: Ôn tập và kiểm tra kì II - Tự nhiên. Ví dụ: bài 66: Bề mặt Trái Đất * Chuẩn bị: - 2 bộ cánh hoa ghi tên các Châu lục: Á, Âu, Phi, Mĩ, Đại dương. - 2 bộ cánh hoa ghi tên các Đại dương là: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương. - 2 bộ nhị hoa gồm: 2 nhị các Châu lục, 2 nhị các Đại dương. * Cách chơi: - Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm - Giáo viên phổ biến luật chơi và nêu yêu cầu chơi. - Học sinh gắn cánh hoa vào nhị hoa. - Giáo viên bình chọn nhóm thắng cuộc. Kết thúc trò chơi học sinh được củng cố khắc sâu về các Châu lục và Đại dương và câu thành ngữ: Năm châu bốn biển. Trò chơi: Tôi là ai? * Mục tiêu: Củng cố tên các con vật, cây cối hoặc các loài hoa các thành viên trong họ nội, họ ngoại. Học sinh gọi được tên của sự vật hoặc người đó. * Chuẩn bị: Từ 5 - 7 vương miện. Mỗi vương miện có dán 1 băng chữ ghi sẵn tên của người hoặc sự vật đó. * Cách chơi: - Giáo viên nêu yêu cầu: Tôi là ai là trò chơi yêu cầu các em đặt câu hỏi giúp bạn đeo vương miện nhận ra mình là ai. - Luật chơi: Giáo viên chọn từ 5 -7 học sinh lên bảng đứng thành hàng. Giáo viên treo những vương miện cho học sinh song lưu ý không được để học sinh nhìn thấy dòng chữ trên vương miện. Các học sinh bên dưới xung phong gợi ý cho bạn, ai gợi ý mà bạn đeo vương miện không nhận ra mình hoặc không gợi ý được sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. (Lưu ý: Giáo viên căn cứ vào nội dung bài học để có số lượng vương miện và dòng chữ trên vương miện phù hợp). Ví dụ: Bài 20: Họ nội họ ngoại * Chuẩn bị: 5 vương miện có các dòng chữ: Ông nội, bà ngoại, dì, chú, bố. * Cách chơi: - Giáo viên nêu vấn đề: Chơi trò chơi: "Tôi là ai" - Giáo viên phổ biến luật chơi: Học sinh dưới gợi ý giúp cho học sinh đeo vương miện nhận ra mình là ai và nói được tên mình. Ai không gợi ý được hoặc gợi ý mà bạn đeo vương miện nói sai tên mình là người thua cuộc. - Giáo viên đeo vương miện cho 5 học sinh (lưu ý 5 học sinh này không được nhìn thấy dòng chữ của vương miện). - Sau khi giáo viên hô: "Trò chơi bắt đầu" thì chỉ định học sinh gợi ý: Ví dụ: + Với bạn đeo vương miện "ông nội". ? Bạn đang đóng vai một người đàn ông sinh ra bố của bạn. Học sinh đeo vương miện nói: Tớ biết tớ đang đóng vai "ông nội". + Với bạn đeo vương miện "dì". ? Bạn đang đóng vai một người đàn bà là em của mẹ. Tớ đóng vai "dì" phải không bạn? Đúng rồi !....... + Trò chơi cứ thế tiếp tục cho đến hết 5 vương miện. - Kết thúc trò chơi: Giáo viên hỏi? ? Trong số các vị đến đây ai là người của họ ngoại. - Bạn đeo vương miện "dì" và "bà ngoại" cùng nói "là tôi" ? Còn các vị còn lại thuộc họ nào? (họ nội) - Giáo viên kết thúc bài. Ghép chữ vào hình * Mục tiêu: Củng cố kiến thức đã học trong bài về một số hệ cơ quan trong cơ thể hoặc các miền khí hậu trên Trái đất ... * Chuẩn bị: - Sơ đồ câm 3 bộ về cơ quan vừa học hoặc lược đồ câm của Trái đất, thềm lục địa, Đại dương. - Các tấm phiếu rời ghi tên các bộ phận của cơ quan hoặc các đới khí hậu, các Châu lục, Đại dương ... * Cách chơi: - Giáo viên yêu cầu: Thi ghép chữ vào hình. * Luật chơi: + Giáo viên treo sơ đồ (lược đồ) câm lên bảng. + Phát mỗi nhóm một bộ phiếu rời (số lượng học sinh chơi phụ thuộc từng bài có số bộ phận cơ quan nhiều hay ít). + Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu học sinh ghép nhanh chữ vào sơ đồ câm. Đội nào nhanh là đội thắng cuộc. * Trò chơi được áp dụng cho các bài sau: Bài 6: Máu và cơ quan tuần hoàn. Bài 7: Hoạt động tuần hoàn. Bài 10: Hoạt động bài tiết nước tiểu. Bài 12: Cơ quan thần kinh. Bài 59: Trái đất và quả địa cầu. Bài 65: Các đới khí hậu. Bài 66: Bề mặt Trái Đất. Ví dụ: Bài 7: Hoạt động tuần hoàn. * Mục tiêu: Củng cố kiến thức đã học về 2 vòng tuần hoàn. * Chuẩn bị: - Sơ đồ câm về 2 vòng tuần hoàn (2 sơ đồ) - 2 bộ phiếu rời ghi tên các lại mạch máu của 2 vòng tuần hoàn. * Cách chơi: - Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm. Mỗi nhóm có một số người chơi phụ thuộc vào số lượng các phiếu rời sẽ dán vào sơ đồ câm. - Giáo viên nêu yêu cầu: Ghép chữ vào hình là trò chơi yêu cầu các em ghép tên vào đúng vị trí trong sơ đồ. - Giáo viên phổ biến luật chơi: Mỗi học sinh trong một nhóm chơi được phát một tấm phiếu. Khi giáo viên hô bắt đầu khi học sinh 1 lên gắn phiếu của mình vào sơ đồ. Gắn xong học sinh đó trở lại vị trí cuối hàng để học sinh 2 lên gắn. Cứ thế cho đến khi gắn xong. Đội nào gắn đẹp nhanh đúng là đội thắng cuộc. - Học sinh chơi gắn chữ vào hình. Sau cuộc chơi giáo viên cho học sinh nhắc lại tên các loại mạch máu của 2 vòng tuần hoàn và kết thúc bài. Trò chơi "Làm theo cô nói không làm theo cô làm". * Mục tiêu: - Học sinh phản ứng nhanh. - Rèn sự nhanh tay nhanh mắt. * Tiến hành: - Giáo viên nêu yêu cầu: Làm theo cô nói không làm theo cô làm là: Khi cô nói A cô làm B các em phải làm là A ai làm theo B là thua cuộc. * Luật chơi: Khi giáo viên hô bắt đầu thì học sinh làm theo hiệu lệnh của giáo viên không được bắt chước hành động của giáo viên. Ai làm sai sẽ thua cuộc. * Trò chơi này được áp dụng cho các bài sau: Bài 1: Hoạt động thở và cơ quan hô hấp. Bài 14: Hoạt động thần kinh. Ví dụ: bài 14: Hoạt động thần kinh - Sau khi học sinh học xong bài giáo viên cho học sinh chơi trò chơi: Làm theo tôi nói không làm theo tôi làm. - Giáo viên quy ước: + Giáo viên nói "con thỏ" giơ 2 tay lên đầu. + Giáo viên nói "ăn cỏ" để tay miệng. + Giáo viên nói "uống nước" lấy tay cái đặt lòng bàn tay trái. + Giáo viên nói "chui hang" để tay vào vành tai. - Giáo viên cho học sinh thực hành thao tác con thỏ, ăn cỏ, uống nước, chui hang. - Giáo viên cho học sinh chơi: Giáo viên hô con thỏ - thao tác của giáo viên cho tay lên vành tai ai làm theo giáo viên là thua cuộc. Cứ thế trò chơi tiếp tục khoảng 2 phút thì dừng. 3.4. Hiệu quả , lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp Qua một học kì áp dụng vào dạy thực nghiệm trên khối lớp 3, tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú say mê học tập. Chưa có hiện tượng nào ngủ gật trong giờ học, học sinh bước vào giờ học với tâm trạng thoải mái, thích thú. Lớp Số HS trả lời đúng 90-100% số câu hỏi Số HS trả lời đúng từ 70-80% số câu hỏi Số HS trả lời đúng 50-60% số câu hỏi Dưới 50% SL % SL % SL % SL % 3A 13 54,2 9 37,5 2 8,3 0 0% 3B 15 60 9 36 1 4 0 0% 3C 14 58,3 7 29,2 3 12,5 0 0% - Khơi dậy lòng say mê thích học hỏi của học sinh làm cho học sinh cảm thấy thực sự yêu trường, yêu thích học tập không nên gò ép các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng sự sáng tạo của học sinh. - Phối hợp tốt các phương pháp dạy học hiện đại và truyền thống vào dạy học. Ưu tiên cho phương pháp trò chơi song khi sử dụng phương pháp này mỗi giáo viên cần lưu ý: + Trò chơi phải góp phần thực hiện mục tiêu bài dạy. + Trò chơi phải được chuẩn bị kĩ phù hợp với đối tượng học sinh cả về thẩm mĩ và nội dung. Kết luận Trong quá trình vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy môn Tự nhiên – Xã hội tôi nhận thấy đây là phương pháp đặc biệt quan trọng bởi nó phù hợp với tâm lí của học sinh. Nó là con đường giúp các em đến với tri thức ngắn nhất. Vì “chơi mà học – học mà chơi” là một hoạt động mang tính tự nguyện không gò ép tạo cho các em được sống là chính mình được tìm tòi, được khám phá ...... Và đây chính là một nét mới – một nét độc đáo trong quá trình dạy học của mỗi giáo viên. Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc “Sử dụng phương pháp trò chơi nhằm nâng cao chất lượng dạy – học môn Tự nhiên – Xã hội ở lớp 3”. Với thời gian vận dụng chưa dài nên có thể sáng kiến của tôi chưa thực sự sâu rộng. Rất mong có sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các chuyên viên, nghiệp vụ. Các bậc chỉ đạo chuyên môn ở các trường để sáng kiến của tôi được hoàn hảo hơn và từng bước áp dụng vào thực tế. 3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu: Không 3.6. Các thông tin cần được bảo mật: Không 3.7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 1. Thế giới trong ta. 2. Tập san Giáo dục và Thời đại. 3. Trò chơi trong Tự nhiên - Xã hội lớp 3. 4. Tâm lí tuổi học sinh Tiểu học. 5. Sách giáo viên và sách giáo khoa Tự nhiên -Xã hội lớp 3. 6. Giáo trình những phương pháp dạy học môn TN – XH Tiểu học 3.8. Tài liệu kèm: Không 4. Tôi xin cam kết không sao chép, không vi phạm bản quyền. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đông Hợp, ngày 11 tháng 5 năm 2017 Cơ quan đơn vị áp dụng sáng kiến Tác giả sáng kiến Nguyễn Thị Hường
Tài liệu đính kèm: